khoá tập huấn thiết kế đô thị dọc theo các trục đường mới mở
Transcription
khoá tập huấn thiết kế đô thị dọc theo các trục đường mới mở
Tài liệu của Trung tâm dự báo và nghiên cứu đô thị - PADDI Les Livrets du Centre de prospective et d’études urbaines - PADDI KHOÁ TẬP HUẤN THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ (Từ 18 - 22/1/2010) ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES (18 - 22 janvier 2010) Region SAØI GOØN TP HOÀ CHÍ MINH LỜI NÓI ĐẦU AVANT-PROPOS M L ục tiêu tổng quát của các khóa học là chuyển giao tri thức: các khóa học của PADDI nhằm bổ sung cho chương trình đào tạo công chức của Thành phố bằng cách hướng đến các khái niệm, kỹ thuật và phương pháp mới (toàn diện, đa ngành) trong quản lý đô thị, trong bối cảnh đặc thù của Thành phố Hồ Chí Minh. Phương pháp tổ chức khóa học được hình thành với sự phối hợp của các đối tác Việt Nam và được các đối tác phê duyệt. Ý tưởng chủ đạo là xem ở Pháp, người ta sử dụng phương pháp nào và giải quyết như thế nào những vấn đề tương tự mà giới chuyên môn Việt Nam đang gặp phải. Để thực hiện được ý tưởng này, nội dung của mỗi khóa học xoay quanh một nghiên cứu trường hợp rất cụ thể của Việt Nam. Các kiến thức tổng hợp từ khóa học có thể giúp hình thành những cách làm mới, chính sách mới và được phổ biến rộng rãi đến mọi người. Tài liệu này được xuất bản nhằm mục đích phổ biến rộng rãi những kiến thức tổng hợp được từ khóa học. ’objectif général des ateliers de formation est le transfert de savoirs : les sessions du PADDI doivent permettre de compléter la formation des fonctionnaires de la ville en les sensibilisant à des concepts, des techniques et des méthodes nouvelles (transversalité, pluridisciplinarité) en matière de gestion urbaine, dans le contexte propre à Hô Chi Minh Ville. La méthode proposée a été imaginée en collaboration avec les partenaires vietnamiens, puis validée par ces derniers. Il s’agit de voir quelles méthodes sont utilisées et quelles réponses sont apportées en France pour répondre à des problèmes similaires à ceux rencontrés par les professionnels vietnamiens au cours de leur activité. Pour ce faire, l’atelier sera organisé autour d’un cas d’étude vietnamien très concret. Une fois établies, ces connaissances devront pouvoir à la fois inspirer de nouvelles pratiques et de nouvelles politiques, et sensibiliser un public plus large grâce à une diffusion étendue. C’est dans cet objectif de large diffusion et de sensibilisation que les Livrets ont été créés. Biên soạn / Rédaction : Jessie Joseph Biên dịch / Traduction : Huỳnh Hồng Đức Chỉnh sửa / Correction : Huỳnh Hồng Đức, Fanny Quertamp Xin chân thành cảm ơn / Avec nos remerciements Mary Senkeomanivane et Le Thi Huyen Trang pour leur relecture 03 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES MỤC LỤC SOMMAIRE 03 LỜI NÓI ĐẦU 03 AVANT-PROPOS 08 DANH SÁCH THAM GIA KHÓA HỌC 09 LISTE DES PARTICIPANTS À L’ATELIER 12 GIỚI THIỆU 13 INTRODUCTION 14 PHẦN 1 – THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG LỚN Ở TPHCM 15 PARTIE 1 – LE DESIGN URBAIN AUTOUR DES GRANDS AXES À HCMV I. BỐI CẢNH VÀ TÌNH HÌNH THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG 1. Khung pháp lý và định nghĩa thiết kế đô thị 2. Dự án đã triển khai 3. Khó khăn trong các dự án thiết kế đô thị 1. Cadre juridique et définitions du design urbain 2. Projets mis en œuvre 3. Difficultés rencontrées autour de projets de design urbain II. NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP: THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO TUYẾN ĐƯỜNG TÂN SƠN NHẤT - BÌNH LỢI VÀ DỌC THEO XA LỘ HÀ NỘI II. ÉTUDES DE CAS : TRAITEMENT DU DESIGN URBAIN LE LONG DE L’AXE TAN SON NHAT / BINH LOI ET LA ROUTE DE HANOI (ROUTE NATIONALE 1) 1. Sự cần thiết phải lập dự án thiết kế đô thị cho xa lộ Hà Nội 2. Mục tiêu và nhiệm vụ của dự án thiết kế đô thị 3. Kế hoạch nghiên cứu cho cả hai dự án 4. Nội dung nghiên cứu đã thực hiện 5. Hiện trạng hai trục đường 6. Các sản phẩm của nghiên cứu 7. Quản lý tạm thời các khu vực 34 PHẦN 2 – KINH NGHIỆM CỦA PHÁP, CHÂU ÂU VÀ MỸ TRONG THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TUYẾN ĐƯỜNG MỚI I. CHÍNH SÁCH QUY HOẠCH MẠNG LƯỚI ĐƯỜNG GIAO THÔNG 1. Làm thế nào để đưa các chính sách này vào tài liệu quy hoạch 2. Làm thế nào giải quyết mâu thuẫn giữa công bố và minh bạch hóa chính sách trước tình trạng đầu cơ? II. CHÍNH QUYỀN CÓ PHƯƠNG THỨC GÌ ĐỂ TẠO QUỸ ĐẤT? 1. Mua qua thương lượng 2. Mua bằng quyền ưu tiên mua 3. Mua bằng quyền trưng mua 04 I. CONTEXTE ET ÉTAT DES LIEUX DES PROJETS DE DESIGN URBAIN LE LONG DE GRANDS AXES DE COMMUNICATION 1. La nécessité d’établir un projet de design pour la route de Hanoi 2. Objectifs et missions du projet de design urbain 3. Planning des deux études 4. Trame du contenu des deux études réalisées 5. Situation des deux axes 6. Eléments produits au cours des études 7. Gestion provisoire des sites 35 PARTIE 2 – EXPÉRIENCES FRANÇAISE, EUROPÉENNE ET AMÉRICAINE DANS LE DESIGN URBAIN DES NOUVEAUX AXES I. LES POLITIQUES D’AMÉNAGEMENT DE VOIRIE 1. Comment les inscrire dans les documents d’urbanisme 2. Comment gérer la contradiction de l’affichage et de la transparence des politiques face aux spéculations II. QUELS SONT LES MOYENS D’ACQUISITION DU FONCIER PAR LA PUISSANCE PUBLIQUE ? 1. Achat à l’amiable 2. Préemption 3. Expropriation 05 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES III. CÁC CHỦ THỂ THAM GIA TẠO QUỸ ĐẤT III. LES ACTEURS QUI ACQUIÈRENT LE FONCIER 1. Acquisition directe par la collectivité 2. Acquisition par un fonds et une structure spéciale qui achètent le foncier pour le compte de l’autorité 3. Portage foncier par les opérateurs privés - cas de l’aménageur privé 1. Chính quyền địa phương mua trực tiếp 2. Quỹ hoặc đơn vị chuyên mua đất cho chính quyền 3. Các đơn vị tư nhân IV. ĐÓNG GÓP TÀI CHÍNH IV. LES PARTICIPATIONS FINANCIÈRES 1. Thuế giá trị gia tăng của đất 2. Thuế cơ sở hạ tầng 3. Đóng góp qua thương lượng tự do (ví dụ ở Anh) 4. Đóng góp bằng vật chất: nhượng đất miễn phí 1. Taxe sur la plus-value foncière 2. Taxes liées à la réalisation des équipements publics 3. Participation librement négociée (exemple anglais) 4. Participation en nature : don de terrain V. THIẾT KẾ KIẾN TRÚC XUNG QUANH CÁC KHÔNG GIAN CÔNG CỘNG V. LE DESIGN DE L’ARCHITECTURE AUTOUR DES ESPACES PUBLICS 1. Xác định chiều cao và mật độ xây dựng bằng cơ chế thị trường và bằng quy định về quy hoạch 2. Xác định rõ các quy định về hài hòa kiến trúc 68 PHẦN 3 – TRỞ LẠI CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP: SUY NGHĨ, TRAO ĐỔI VÀ TỔNG HỢP I. ĐÀO SÂU MỘT SỐ ĐIỂM VỀ THIẾT KẾ VÀ TÀI CHÍNH TRONG DỰ ÁN CẢI TẠO MỘT TUYẾN ĐƯỜNG Ở ĐÔ THỊ 1. La détermination des hauteurs et des densités minimales par le marché d’une part et la détermination des hauteurs et des densités maximales par le règlement d’autre part 2. Fixer des règles d’harmonie architecturale 69 I. APPROFONDISSEMENT DE QUELQUES POINTS EN MATIÈRE DE CONCEPTION ET DE FINANCEMENT DE RÉAMENAGEMENT D’AXES URBAINS 1. Đường Tân Sơn Nhất - Bình Lợi – Vành đai ngoài 2. Xa lộ Hà Nội 1. Retour sur l’étude de cas de la route Tan Son Nhat / Binh Loi 2. Le tracé de la route reliant le delta du Mékong aux provinces du centre Vietnam II. TỔNG HỢP CÁC CÂU TRẢ LỜI CỦA CHUYÊN GIA PHÁP TRONG SUỐT KHÓA HỌC II. SYNTHÈSE DES RÉPONSES APPORTÉES PAR L’EXPERT FRANÇAIS PENDANT L’ATELIER 1. Thiết kế một tuyến đường 2. Thiết kế kiến trúc và đảm bảo sự hài hòa của các tòa nhà dọc theo một tuyến đường 3. Chiến lược kinh tế 79 PHẦN 4 – TỔNG HỢP VÀ KHUYẾN NGHỊ CỦA CHUYÊN GIA PHÁP I. THIẾT KẾ TUYẾN ĐƯỜNG II. QUY ĐỊNH VỀ MẬT ĐỘ, CHIỀU CAO VÀ KHÔNG GIAN BÊN NGOÀI III. CÁC PHƯƠNG TIỆN CỦA NHÀ NƯỚC TRONG HÀNH ĐỘNG VỀ ĐẤT ĐAI IV. XEM XÉT HỒ SƠ XIN CẤP GIẤY PHÉP XÂY DỰNG V. THUẾ 06 PARTIE 3 – RETOUR SUR LES ÉTUDES DE CAS : RÉFLEXION, ÉCHANGES ET SYNTHÈSE 1. Design de la route 2. Design architectural et harmonie des façades des projets le long de la route 3. Stratégie économique 80 PARTIE 4 – SYNTHÈSE ET RECOMMANDATIONS DE L’EXPERT FRANÇAIS I. LA CONCEPTION DE LA VOIRIE II. LA PLANIFICATION DES DENSITÉS, DES HAUTEURS ET DES ESPACES EXTERIEURS III. LES MOYENS PUBLICS D’ACTION FONCIÈRE IV. L’INSTRUCTION DES PERMIS DE CONSTRUIRE V. LA FISCALITÉ 07 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ DANH SÁCH THAM DỰ KHÓA TẬP HUẤN LISTE DES PARTICIPANTS À L’ATELIER Chuyên gia Pháp: Ông Jean - Charles Castel (Chuyên gia về quy hoạch, Trưởng nhóm Quan sát đô thị tại Trung tâm Nghiên cứu mạng lưới hạ tầng kĩ thuật, giao thông và quy hoạch đô thị (CERTU) L’expert français : Jean-Charles Castel (Urbaniste de l’Etat. Chef de groupe Observation urbaine au Centre d’études sur les réseaux, les transports et l’urbanisme (CERTU) Chuyên gia Việt Nam: Huỳnh Xuân Thụ, Giám đốc Trung tâm thông tin quy hoạch, Sở Quy hoạch - Kiến trúc TPHCM L’expert vietnamien : Huynh Xuan Thu, Chef du Centre d'information sur la planification du DUPA Phiên dịch: Ông Huỳnh Hồng Đức Sở Quy hoạch Kiến Trúc Lý Thế Dân Nguyễn Thị Nam Hải Bùi Hồng Hà Trần Hoàng Tuyên Đỗ Thiện Hồng Thuyên Lê Đình Phú Nguyễn Thị Lan Hương Phòng Quản lý Quy hoạch khu vực 1 - Sở Quy hoạch Kiến Trúc Khổng Thị Thanh Phương Phòng Quản lý Quy hoạch khu vực 2 - Sở Quy hoạch Kiến Trúc Nguyễn Hoàng Anh Phan Hoàng Minh Vũ Hùng Tú Nguyễn Như Minh Trần Minh Tâm Nguyễn Minh Sơn Phòng Quản lý quy hoạch khu trung tâm – Sở Quy hoạch Kiến Trúc Phùng Thị Mỹ Hoàng Lý Khánh Tâm Thảo Đặng Thị Thanh Vân Phòng Quản lý Hạ tầng Kỹ thuật – Sở Quy hoạch Kiến Trúc Nguyễn Tất Thắng Vũ Thị Thu Hà Nguyễn Tuấn Anh Hồ Thanh Nghiệm 08 ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES Phòng Quản lý Quy hoạch chung – Sở Quy hoạch Kiến Trúc Hoàng Anh Trung tâm Nghiên cứu Kiến trúc Nguyễn Văn Giàu Bùi Quốc Cường Lê Thị Bích Hạnh Nguyễn Quốc Bảo Lê Nguyễn Hương Giang Trần Tấn Hiền Lê Ngọc Vân Anh Thiều Thị Hằng Diệc Kỳ Luận Nguyễn Thị Khánh Hiền Trung tâm Thông tin Quy hoạch Ngô Ngọc Hải Lê Văn Tuệ Vũ Đình Tứ Dương Thị Anh Thư Phạm Diệp Anh Trịnh Thục Quyên Sở Tài nguyên Môi trường Trần Nguyễn Hùng Phòng Kế hoạch – Sở Tài nguyên Môi trường Nguyễn Hoàng Hải Yến Trung tâm Phát triển Quỹ đất – Sở Tài Nguyên Môi trường Lê Đình Quang Traducteur : M. Huynh Hong Duc Département l’Architecture de la Planification et de Ly The Dan Nguyen Thi Nam Hai Bui Hong Ha Tran Hoang Tuyen Do Thien Hong Thuyen Le Dinh Phu Nguyen Thi Lan Huong Département de la Planification et de l’ArchitectureBureau de gestion de la Planification de la zone 1 Khong Thi Thanh Phuong Département de la Planification et de l’ArchitectureBureau de gestion de la Planification de la zone 2 Nguyen Hoanh Anh Phan Hoang Minh Vu Hung Tu Nguyen Nhu Minh Tran Minh tam Nguyen Minh Son Département de la Planification et de l’Architecture - Bureau de gestion de la Planification du centre Phung Thi My Hoang Ly Khanh Tam Thao Dang Thi Thanh Van Département de la Planification et de l’Architecture - Bureau de gestion des infrastructures techniques Nguyen Tat Thang Vu Thi Thu Ha Nguyen Tuan Anh Ho Thanh Nghiem Département de la Planification et de l’Architecture - Bureau de gestion du Schéma directeur Hoang Anh Centre d’Étude et d’Architecture Nguyen Van Giau Bui Quoc Cuong Le Thi Bich Hanh Ngyen Quoc Bao Le Nguyen Huong Giang Tran Tan Hien Le Ngoc Van Anh Thieu Thi Hang Diec Ky Luan Nguyen Thi Khanh Hien Centre d’information de la Planification (PLANIC) Ngo Ngoc Hai Le Van Tue Vu Dinh Tu Duong Thi Anh Thu Pham Diep Anh Trinh Thuc Quyen Département des Ressources Naturelles et de l’Environnement Tran Nguyen Hung Département de la Planification l’Architecture - Bureau du Plan et de Nguyen Hoang Hai Yen Département de la Planification et de l’Architecture - Centre de Développement du foncier Le Dinh Quang 09 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ Sở Xây dựng Nguyễn Tùng Lâm Hồ Minh Tâm Trần Tấn Đức Sở Giao thông Vận tải Hoàng Lê Quân Hồ Thị Tuyết Nga Phòng Quản lý Kỹ thuật Hạ tầng Giao thông – Sở Giao thông Vận tải Đinh Công Phương Nguyễn Xuân Phương Ủy Ban Nhân Dân Q.1 Nguyễn Quang Thắng Phòng Quản lý đô thị Q.2 Lê Xuân Viên Phòng Quản lý đô thị Q.3 Nguyễn Thị Thu Hằng Phòng Quản lý đô thị Q.5 Huỳnh Thiện Triết Phòng Quản lý đô thị Q.6 Phạm Thị Trúc Nghi Phòng Quản lý đô thị Q.9 Phạm Thị Thanh Bình Bùi Văn Biên 10 Phòng Quản lý đô thị Q.Bình Tân Lê Văn Ngọc Phòng Quản lý đô thị Q.Bình Thạnh Huỳnh Đăng Anh Thư Ban Quản lý đầu tư xây dưng công trình Q.3 Nguyễn Hoàng Tố Anh Phòng Công thương huyện Bình Chánh Thái Hoàng Minh Phòng Công thương huyện Nhà Bè Đinh Lê Hà Phòng Tài nguyên Môi trường Q.2 Huỳnh Thị Thanh Thảo Surbana International Consultants Pte Ltd Đinh Thị Thu Giang PADDI Fanny Quertamp Nguyễn Hồng Vân Huỳnh Hồng Đức Jessie Joseph Trần Thị Thu Hiền ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES Département de la Construction Bureau de gestion urbaine du district Binh Tan Nguyen Tung Lam Ho Minh Tam Tran Tan Duc Département des Communications Le Van Ngoc Bureau de gestion urbaine du district Binh Thanh Transports et des Hoang Le Quan Ho Thi Tuyet Nga Département des Transports et des Communications - Bureau de gestion des infrastructures techniques de la Circulation Dinh Cong Phuong Nguyen Xuan Phuong Comité populaire du district 1 Nguyen Quang Thang Bureau de gestion urbaine du district 2 Le Xuan Vien Bureau de gestion urbaine du district 3 Nguyen Thi Thu Hang Bureau de gestion urbaine du district 5 Huynh Thien Triet Bureau de gestion urbaine du district 6 Pham Thi Truc Nghi Bureau de gestion urbaine du district 9 Huynh Dang Anh Thu Comité de gestion de l’Investissement et de la Construction du district 3 Nguyen Hoang To Anh Bureau de l’Industrie et du Commerce du district Binh Chanh Thai Hoang Minh Bureau de l’Industrie et du Commerce du district Nha Be Dinh Le Ha Bureau des Ressources Naturelles et de l’Environnement du district 2 Huynh Thi Thanh Thao Surbana International Consultants Pte Ltd Dinh Thi Thu Giang PADDI Fanny Quertamp Nguyễn Hồng Vân Huỳnh Hồng Đức Jessie Joseph Trần Thị Thu Hiền Pham Thi Thanh Binh Bui Van Bien 11 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ GIỚI THIỆU C ác vấn đề về "cải tạo, chỉnh trang đô thị" đã có nhiều biến đổi và là chủ đề của khóa học "Thiết kế đô thị dọc theo các tuyến đường mới mở". Thật vậy, khi mở rộng một tuyến đường, xây dựng một tuyến metro hoặc một tuyến đường dành riêng cho xe buýt, vấn đề đặt ra là làm thế nào để cải tạo không gian dọc theo tuyến đường đó? Điều này đòi hỏi cần đề cập đến những điểm sau: - Sự đồng bộ của cơ sở hạ tầng và công trình công cộng: kết hợp không gian công cộng (không gian xanh…) và không gian chức năng: thương mại, dân cư trong đó có chú ý đến mật độ (dọc theo các tuyến đường, trong ô phố); 12 ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES INTRODUCTION - Các phương thức triển khai thực hiện thiết kế đô thị và quy hoạch cảnh quan; - Tạo nguồn kinh phí để thực hiện các dự án: làm thế nào để các nhà đầu tư xây dựng nhà ở và văn phòng đóng góp tài chính cho việc thực hiện các công trình cơ sở hạ tầng xã hội (bệnh viện, trường học) và kỹ thuật (đường giao thông, không gian công cộng) trong khu vực họ đầu tư? Đây là vấn đền liên quan nhiều đến quy hoạch và tài chính hơn là đất đai. L e thème et les problématiques liées aux « réaménagements urbains » ont sensiblement évolué et se sont clarifiés portant le sujet de ce nouvel atelier sur la question du « Réaménagement Urbain autour des nouveaux axes ». En effet, lors d’élargissement des axes, de création de lignes de métro ou de Bus Rapid Transit, comment aménager les nouveaux espaces le long de ces nouveaux axes de desserte ? Cette problématique permet d’aborder, en particulier, les questions : - de la mise en cohérence des infrastructures et des équipements : association d’espaces publics (espaces verts…) et espaces aux fonctions commerciales, résidentielles, liés à la réflexion sur les densités (en bordure d’axes, en arrière d’îlot) ; - des moyens de mise en œuvre et de conception du design urbain, du skyline et des aménagements paysagers ; - de la création d’un fonds permettant de financer la réalisation des projets : comment faire participer financièrement les investisseurs de logements et de bureaux dans les équipements de superstructures (écoles, hôpitaux) et d’infrastructures (routes, espaces publics) des secteurs où s’implantent leurs projets. Il s’agit moins de la question foncière que de la question de l’aménagement et des financements qui lui sont liés. 13 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ PHẦN 1 – THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG LỚN Ở TPHCM Ông Huỳnh Xuân Thụ, Giám đốc Trung tâm thông tin quy hoạch, mở đầu khóa học với phần trình bày về tình hình thiết kế đô thị tại TPHCM và nghiên cứu trường hợp tuyến đường Tân Sơn Nhất - Bình Lợi – Vành đai ngoài. I. Bối cảnh và tình hình thiết kế đô thị dọc theo các tuyến đường chính Thiết kế đô thị là một khái niệm mới ở Việt Nam và nhà nước chỉ mới quan tâm đến khái niệm này từ năm 2000. Năm 2004 đã có một cuộc hội thảo về thiết kế đô thị được Bộ xây dựng và Trường Đại học Kiến trúc tổ chức. 1. Khung pháp lý và định nghĩa thiết kế đô thị Nhiều văn bản về quy hoạch đề cập đến khái niệm thiết kế đô thị: - Luật Quy hoạch đô thị ngày 17 tháng 6 năm 2009. - Luật Xây dựng ngày 26 tháng 11 năm 2003; - Nghị định 29/2007/NĐ-CP ngày 27/02/2007 của Chính phủ về quản lý kiến trúc đô thị; - Nghị định 08/2005/NĐ-CP ngày 24/01/2005 của Chính phủ về quy hoạch xây dựng; - Thông tư 08/2007/TT-BXD ngày 10/9/2007 của Bộ xây dựng hướng dẫn lập, thẩm định, phê duyệt Quy chế quản lý kiến trúc đô thị; - Quyết định 101/2008 của Thủ tướng. Định nghĩa thiết kế đô thị theo luật xây dựng a. Thiết kế đô thị là một phần không thể thiếu trong quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị. Thiết kế đô thị quy định cốt xây dựng của mặt đường, vỉa hè, nền công trình, chiều cao công trình, kiến trúc mặt đứng, hình thức kiến trúc mái, màu sắc công trình trên từng tuyến phố. b. Thiết kế đô thị phải thể hiện được sự phù hợp với điều kiện tự nhiên của địa phương, hài hoà với cảnh quan thiên nhiên và nhân tạo ở khu vực thiết kế; tận dụng các yếu tố mặt nước, cây xanh; bảo vệ di sản văn hoá, công trình di tích lịch sử - văn hóa, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Định nghĩa thiết kế đô thị theo luật quy hoạch đô thị: a. Nội dung thiết kế đô thị trong đồ án quy hoạch chung bao gồm: - Việc xác định các vùng kiến trúc, cảnh quan trong đô thị; - Đề xuất tổ chức không gian tại: • Khu trung tâm; • Khu vực cửa ngõ đô thị; • Trục không gian chính; • Quảng trường lớn; • Không gian cây xanh, mặt nước; • Điểm nhấn trong đô thị. b. Nội dung thiết kế đô thị trong đồ án quy hoạch phân khu bao gồm: xác định chỉ tiêu khống chế về khoảng lùi, cảnh quan đô thị dọc các trục đường chính, khu trung tâm; các khu vực không gian mở, các công trình điểm nhấn và từng ô phố cho khu vực thiết kế. c. Nội dung thiết kế đô thị trong đồ án quy hoạch chi tiết bao gồm: ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES PARTIE 1 – LE DESIGN URBAIN AUTOUR DES GRANDS AXES À HCMV M. Huynh Xuan Thu, Chef du Centre d'information sur la planification du DUPA débute l’atelier en expliquant dans quel contexte intervient la notion de design urbain à HCMV. Pour ce faire, il expose, dans un second temps, le cas de la route Tan Son Nhat – Binh Loi. I. Contexte et état des lieux des projets de design urbain le long de grands axes de communication M. Thu explique que le design urbain est une notion nouvelle au Vietnam qui est prise en compte par les autorités depuis les années 2000. En 2004, un colloque sur le design urbain a été organisé par le Ministère de la Construction et l’Université d’Architecture. 1. Cadre juridique et définitions du design urbain Différents documents d’urbanisme abordent la notion de design urbain : - Loi sur l’urbanisme du 17 juin 2009. Cette loi - Xác định các công trình điểm nhấn trong khu vực quy hoạch theo các hướng tầm nhìn, tầng cao xây dựng công trình cho từng lô đất và cho toàn khu vực; khoảng lùi của công trình trên từng đường phố và ngã phố; - Xác định hình khối, màu sắc và kiến trúc chủ đạo của các công trình kiến trúc; hệ thống cây xanh, mặt nước, quảng trường. d. Nội dung thiết kế đô thị của đồ án thiết kế đô thị riêng bao gồm việc xác định chiều cao xây dựng cho từng công trình; khoảng lùi của công trình trên từng đường phố và ngã phố; xác định màu sắc, vật liệu, kiểu dáng, chi tiết kiến trúc của các công trình và các vật thể kiến trúc khác; tổ chức cây xanh công cộng, sân vườn, cây xanh đường phố và mặt nước. - - contient des informations sur la notion de design urbain ; Loi sur la construction du 26 novembre 2003 ; Décret 29/2007/NĐ-CP du 27/02/2007 du Gouvernement sur la gestion architecturale en milieu urbain ; Décret 08/2005/NĐ-CP du 24/01/2005 du Gouvernement sur la planification des constructions ; Circulaire 08/2007/TT-BXD datée du 10/9/2007 du Ministère de la Construction guidant l’élaboration, l’évaluation et l’approbation du « Règlement de gestion architecturale en milieu urbain » ; Décision 101/2008 du Premier ministre. Définition du design urbain selon la loi sur la construction : a. Le design urbain fait partie intégrante du plan détaillé d’aménagement. Il doit fixer les dimensions de la chaussée, du trottoir, des seuils des constructions. Il doit également prescrire la hauteur des bâtiments, l’architecture des façades 14 et toitures ainsi que les couleurs sur chaque tronçon de rue. b. Le design urbain doit être compatible avec les conditions naturelles du territoire, harmonieux avec le paysage naturel et artificiel du secteur en mettant en valeur les espaces verts et bleus ; en protégeant le patrimoine culturel, les sites historiques et en valorisant les identités culturelles du pays. Définition du design urbain selon la loi sur la planification urbaine : a. Le design urbain accompagnant le schéma directeur doit : - définir les zones architecturales et paysagères de la ville ; - proposer une organisation spatiale cohérente de : • la partie centrale de la ville ; • des entrées de la ville ; • des principaux axes de circulation ; • des places ; • des espaces verts et des plans d’eau ; • des points de repère dans la ville. b. Le design urbain accompagnant le plan de zonage doit définir les normes régulant le recul des constructions, le paysage urbain le long des axes majeurs et dans la partie centrale; les zones d’espace ouvert, les ouvrages points de repère, et chaque îlot dans l’aire du design. c. Le design urbain accompagnant le plan détaillé doit - définir les ouvrages points de repère par rapports aux différentes directions de vue, le nombre d’étages des constructions pour chaque parcelle et pour toute la zone; le recul des ouvrages sur chaque rue et chaque ruelle ; - préciser les formes, les couleurs et l’architecture dominante pour les ouvrages; la trame verte et bleue et les places. d. Le design urbain pour un secteur de la ville doit définir la hauteur de chaque ouvrage et le nombre d’étage des constructions ; le recul des ouvrages sur chaque rue et chaque ruelle; préciser les couleurs, les matériaux, la forme et les détails des ouvrages et autres objets architecturaux ; l’organisation des espaces verts publics, des jardins, des rangées d’arbres et des surfaces bleues. 15 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ 2. Các dự án đã triển khai Nhiều dự án thiết kế đô thị đã và đang được thực hiện tại TPHCM: - Khu A của Khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng 1995 Khu đô thị mới Thủ Thiêm 2005 Bốn ô phố trước Dinh Thống Nhất 2009 Khu trung tâm TPHCM mở rộng 930 ha Khu đô thị cảng Hiệp Phước Khu đô thị mới Tây Bắc TPHCM Dọc theo đại lộ Đông - Tây Dọc theo xa lộ Hà Nội Dọc theo đường Tân Sơn Nhất - Bình Lợi – Vành đai ngoài - Dọc theo đường Trường Sơn - Phan Đình Giót Nhiều dự án khác cũng đang được chuẩn bị. Theo yêu cầu của UBND Thành phố, Sở Quy hoạch-Kiến trúc phối hợp với Hội kiến trúc sư thành phố thực hiện ba dự án sau: 1. Đại lộ Đông - Tây 2. Đường Tân Sơn Nhất - Bình Lợi – Vành đai ngoài 3. Xa lộ Hà Nội Trung tâm nghiên cứu kiến trúc chủ trì dự án thứ nhất, Trung tâm thông tin quy hoạch chủ trì dự án 2 và 3. 3. Khó khăn trong các dự án thiết kế đô thị Nhiều khó khăn nảy sinh trong thiết kế và thực hiện đồ án thiết kế đô thị, đặc biệt là: - Việc phân cấp quản lý và thẩm quyền thiết kế đô - thị giữa Thành phố và các quận/huyện, Không gian công cộng: chưa được chú trọng, Phương pháp: các bước thực hiện khó xác định rõ ràng, Mô hình tham khảo, Cơ chế quản lý dự án, Tổ chức thực hiện dự án, Quản lý và giải phóng mặt bằng, Thiết kế đô thị được thực hiện sau khi đã giải tỏa nhà cửa và đã xây dựng lại. Các khó khăn này thể hiện rõ trong dự án Đại lộ Đông Tây trong đó việc quy hoạch không gian công cộng tương đối tốt, nhưng phần cảnh quan thì chưa tốt. Sự hài hòa về kiến trúc không được đảm bảo khi thực hiện đại lộ này. Dự án đường Tân Sơn Nhất - Bình Lợi hiện đang gặp khó khăn về giải phóng mặt bằng. Ngoài ra, các công trình xây dựng dọc theo tuyến đường này rất lộn xộn, do đó gây khó khăn cho công tác thiết kế đô thị. Tuy nhiên, dự án đường Tân Sơn Nhất - Bình Lợi và xa lộ Hà Nội vẫn còn chưa thực hiện, do đó còn có thể nghiên cứu và thực hiện thiết kế đô thị, khác với Đại lộ Đông Tây đã thi công hoàn chỉnh. II. Nghiên cứu trường hợp: thiết kế đô thị dọc theo đường Tân Sơn Nhất - Bình Lợi và xa lộ Hà Nội 1. Sự cần thiết phải lập thiết kế đô thị cho xa lộ Hà Nội - Theo yêu cầu của luật: Luật quy hoạch đô thị và luật xây dựng xác định nội dung của thiết kế đô thị để phục vụ cho công tác quản lý và phát triển đô thị. - Theo yêu cầu của Thành phố: Đây là tuyến đường cửa ngõ ra vào thành phố. Do đó, thiết kế đô thị dọc trục đường phải đáp ứng yêu cầu về chất lượng cảnh quan và tổ chức không gian chức năng đồng bộ. Nó sẽ giúp khai thác hiệu quả tiềm năng đất đai trong khu vực, cải thiện giao thông, phát huy giá trị của tuyến metro số 1, phù hợp với vai trò và đặc trưng của tuyến đường như đã được xác định trong quy hoạch chung của Thành phố. Thiết kế đô thị trên tuyến đường này còn có nhiệm vụ cải thiện môi trường, tăng diện tích không gian xanh và mặt nước cho thành phố. Thiết kế đô thị phải xứng tầm với tuyến đường cửa ngõ của Thành phố. - Theo yêu cầu của doanh nghiệp: Cần tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất của các doanh nghiệp nhằm khai thác giá trị đất tốt hơn. Thông tin quy hoạch phải rõ ràng và dễ tiếp cận để các nhà đầu tư có thể lập dự án dễ dàng. Ngoài ra, cũng cần tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế và đầu tư. - Theo yêu cầu của người dân: Giao thông sẽ thuận tiện hơn nhờ giảm ùn tắc. Cần phát triển nhà ở, tạo việc làm trong môi trường, cảnh quan và kiến trúc đô thị tốt hơn. ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES 2. Projets mis en œuvre Plusieurs projets de design urbain ont été réalisés ou sont en cours de réalisation à HCMV : - Le secteur A de la Ville nouvelle Phu My Hung 1995 La Ville nouvelle de Thu Thiem 2005 Les 4 îlots devant le Palais de Réunification 2009 Le Centre historique de HCMV (930 ha) La nouvelle ville portuaire Hiep Phuoc La ville nouvelle au Nord Ouest de HCMV Le long du boulevard Est – Ouest Le long de la route de Ha Noi Le long de la route Tan Son Nhat - Binh Loi - Vanh đai ngoai - Le long de la rue Truong Son – Phan Dình Giot. Plusieurs autres projets sont également en préparation. Il est à noter qu’à la demande du Comité populaire un travail, a été engagé en coordination avec l’association des architectes à travers les trois projets suivants : 1. Le boulevard Est-Ouest de HCMV 2. L’axe qui mène à l’aéroport Tan Son Nhat / Binh Loi 3. L’axe de la route de Hanoi Le centre de recherche architectural est en charge du premier projet et le DUPA travaille sur les projets 2 et 3. 3. Difficultés rencontrées autour de projets de design urbain Plusieurs difficultés apparaissent lors de la conception ou de la réalisation de projet de design urbain, et ce notamment concernant : - La répartition des compétences en matière de design urbain entre la ville et les districts, - L’espace public : celui-ci est souvent mal pris en compte, - La méthodologie : les étapes de démarche sont difficiles à identifier, - Les modèles urbains de références pour les - secteurs particuliers, Les mécanismes de gestion d’un projet, L’organisation de la mise en œuvre d’un projet, La gestion et la libération du foncier. Le fait que le projet de design urbain est réalisé après la libération du terrain et la reconstruction des bâtiments Ces difficultés se retrouvent, par exemple, dans la 16 réalisation du boulevard Est-Ouest dont l’aménagement en matière d'espaces publics semble avoir été bien traité mais dont l’aspect paysager n’apparaît pas satisfaisant. En effet, la cohérence architecturale pèche dans la réalisation de ce boulevard. Le projet de l’axe Tan Son Nhat / Binh Loi rencontre à l’heure actuelle des difficultés pour la libération des terrains. Par ailleurs, les constructions qui longent cette voie sont très disparates dans leurs formes, ce qui ajoute une difficulté supplémentaire dans la réalisation du design urbain. Toutefois, le projet de l’axe Tan Son Nhat / Binh Loi ainsi que celui de l’axe de la route d’Hanoi ne se situant pas encore dans une phase trop avancée, il reste encore possible de réfléchir en amont sur la conception et la mise en œuvre du design urbain, ce qui n’est plus le cas pour le boulevard Est-Ouest qui se trouve dans une phase bien plus avancée. II. Etudes de cas : traitement du design urbain le long de l’axe Tan Son Nhat / Binh Loi et de la route d’Hanoi (Route Nationale 1) 1. La nécessité d’établir un projet de design urbain pour la route d’Hanoi - À la demande de la loi : La loi sur la planification urbaine et celle sur la construction précisent les contenus du design urbain au service de la gestion et du développement urbain. - À la demande de la Ville : Il s’agit de créer une nouvelle route d’entrée et de sortie de la ville. La conception de l’axe devra prévoir un aménagement paysager de qualité ainsi qu’une organisation fonctionnelle et cohérente de l’espace. Elle permettra d’exploiter efficacement les potentialités des sols dans le secteur, d’améliorer les transports, de mettre en valeur la ligne de Metro 1 conformément au caractère et rôle de cet axe comme définis dans le schéma directeur de la ville. La route aura également vocation à améliorer l’environnement, accroître les superficies d’espaces verts et de plans d’eau au profit de la ville. Elle devra être à la hauteur d’une route d’entrée et de sortie de Ville. - À la demande des entreprises : Il s’agit de créer des conditions favorables pour laisser libre cours aux possibilités de changement d’affectation des sols dont les entreprises disposent, dans le but 17 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ 2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đồ án thiết kế đô thị - Kết hợp chặt chẽ các dự án phát triển hệ thống giao thông với nhiệm vụ điều chỉnh cấu trúc đô thị theo đúng định hướng phát triển không gian của thành phố (về hạ tầng kỹ thuật, sử dụng đất, phân bố dân cư và lao động…) phát huy tối đa hiệu quả cải thiện giao thông đô thị của các trục, tuyến giao thông trọng điểm. - Tổ chức không gian đô thị, bộ mặt kiến trúc đô thị khang trang để tạo hình ảnh tốt đẹp về thành phố Hồ Chí Minh ngay từ trục đường cửa ngõ ra vào thành phố. - Tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư phát triển đô thị, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo định hướng chung của Thành phố. - Kết hợp khai thác tối ưu giá trị quyền sử dụng đất của Nhà nước và tư nhân, đem lại hiệu quả kinh tế, tài chính cao, gián tiếp thu hồi một phần vốn cho ngân sách nhà nước, bù đắp cho kinh phí đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị. - Cải thiện môi trường đô thị, thúc đẩy chuyển dời các cơ sở sản xuất ô nhiễm ra các khu công nghiệp tập trung, tăng cường cây xanh và bổ sung quỹ đất xây dựng các công trình công cộng. - Lập và pháp lý hóa quy chế quản lý đô thị cấp II để nâng cao hiệu quả quản lý quy hoạch xây dựng đô thị. ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES de mieux les exploiter. Les informations sur la planification doivent être claires et accessibles pour que les investisseurs puissent facilement monter leurs projets. Il faut également créer des conditions favorables pour les activités économiques et les activités d’investissement. - À la demande des habitants : La circulation doit être facilitée grâce à la réduction des embouteillages. Il faut développer des logements, créer de l’emploi, et ce au sein d’un meilleur environnement urbain, paysager et architectural. 2. Objectifs et missions du projet design urbain - Coordonner les projets de développement des transports avec la modification de la structure urbaine conformément aux orientations de développement de la Ville (au niveau des infrastructures techniques, de l’occupation du sol, de la répartition de l’habitat…). Améliorer la 3. Kế hoạch nghiên cứu STT 18 TÊN CÔNG VIỆC circulation sur les axes majeurs. l’espace urbain, le paysage et l’architecture urbaine pour une bonne image de la ville d’HCM dès l’entrée de ville sur les axes majeurs. Créer des conditions favorables pour l’investissement dans le développement urbain et la restructuration de l’économie de la Ville. Valoriser au maximum les terrains publics et privés. Demander la participation des acteurs concernés pour réduire les financements publics dans la construction des infrastructures techniques urbaines. Améliorer l’environnement urbain. Délocaliser des unités de production polluantes dans les zones industrielles. Augmenter la surface des espaces verts et celle réservées aux équipements publics. Élaborer et instaurer le règlement de gestion urbaine pour améliorer l’organisation des constructions urbaines. - Organiser - - - 3. Planning de l’étude NỘI DUNG - Xác định mục tiêu - Xác định cơ sở pháp lý - Xác định ranh giới, phạm vi, nghiên cứu - Xác định sản phẩm nghiên cứu. THỜI GIAN 1 Xác định mục tiêu và phạm vi nghiên cứu 2 - Thông tin về dự án đường XLHN, dự án Metro - Thông tin hiện trạng (SDĐ; giao thông; hạ tầng kỹ thuật; xã hội; dân cư; hoạt động kinh tế; kiến trúc Khảo sát hiện trạng và thu thập cảnh quan; công trình bảo tồn; tĩnh không sân bay. thông tin - Thông tin về tình hình quy hoạch chung, QHCT, các dự án đầu tư trong phạm vi nghiên cứu. - Thông tin về quy hoạch chung TP, quy hoạch vùng, quy hoạch các khi đô thị lân cận,... 2 tháng 3 Đề xuất các phương án 1 tháng 4 Hoàn thiện hồ sơ TKĐT 5 Hoàn thiện quy chế quản lý đô thị cấp II Đề xuất các phương án tổ chức không gian - Hồ sơ TKĐT theo luật - Mô hình TKĐT toàn cầu Biên soạn quy chế quản lý đô thị cấp II cho khu vực 1 tháng No TRAVAIL DUREE Definir les objectifs et le perimétre de l’étude - Définir les objectifs - Identifier le cadre juridique - Définir le périmètre de l’étude - Définir les produits de l’étude 1 mois 2 Enquête sur le terrain et collecte des informations - Information sur le projet d'élargissement de la Route de Hanoi et sur le projet de Métro - État des lieux (occupation des sols, transports, infrastructures techniques, infrastructures sociales, démographie, activités économiques, architecture et paysage, ouvrages à protéger, couloir aérien); - Information sur le Schéma Directeur, les plans détaillés et les projets d’investissement sur le périmètre de l'étude; - Information sur la planification régionale, les zones urbaines aux alentours,... 2 mois 3 Proposition des scénarios Proposition des scénarios de l’organisation de l’espace 1 mois 4 Finition du dossier de design urbain - Dossier comportant des pièces conformément à la demande de la loi - Maquette générale du secteur 2 mois 5 Finition du règlement sur la gestion urbaine Élaboration du Règlement sur la gestion urbaine pour le secteur 2 mois 1 2 tháng 2 tháng CONTENU 19 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ 4. Nội dung nghiên cứu của hai đồ án Các đồ án thiết kế đô thị cho trục đường Tân Sơn Nhất - Bình Lợi và Xa lộ Hà Nội được thực hiện dưới sự chỉ đạo điều hành của Sở quy hoạch - Kiến trúc và phối hợp với các đơn vị sau: - Viện quy hoạch xây dựng, Hội kiến trúc sư TPHCM, UBND các quận/huyện, Sở Giao thông - Vận tải, Sở Tài nguyên - Môi trường, Công ty GS (công ty của Hàn Quốc, chủ thầu tuyến đường Tân Sơn Nhất - Bình Lợi - Vành Đai Ngoài). Đơn vị thực hiện: Trung tâm thông tin quy hoạch Sở Quy hoạch - Kiến trúc và Trung tâm thông tin quy hoạch đã lập Nhiệm vụ thiết kế cho đồ án thiết kế đô thị trục đường Tân Sơn Nhất - Bình Lợi - Vành Đai Ngoài và Xa lộ Hà Nội. Dưới đây là phần mục lục của hai nhiệm vụ thiết kế này: I. LÝ DO VÀ SỰ CẦN THIẾT LẬP ĐỒ ÁN THIẾT KẾ ĐÔ THỊ 1. Lý do và sự cần thiết lập đồ án thiết kế đô thị 2. Mục tiêu của đồ án II. CĂN CỨ LẬP ĐỒ ÁN THIẾT KẾ ĐÔ THỊ 1. Cơ sở pháp lý 2. Nguồn tài liệu, số liệu 3. Cơ sở bản đồ III. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CỦA ĐỒ ÁN THIẾT KẾ ĐÔ THỊ 1. Ranh giới và phạm vi nghiên cứu 2. Nội dung nghiên cứu a. Hiện trạng xây dựng và sử dụng đất b. Quy hoạch sử dụng đất c. Phân khu chức năng d. Tổ chức không gian e. Quy định về chỉ giới IV. HỒ SƠ SẢN PHẨM a. Hồ sơ bản vẽ b. Hồ sơ thuyết minh c. Quy chế quản lý đô thị cấp II d. Mô hình V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN Các cơ quan lập quy hoạch, cơ quan thẩm định, cấp phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch và phê duyệt quy hoạch. a. Đơn vị lập quy hoạch b. Cơ quan thẩm định c. Cấp phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch và phê duyệt quy hoạch 5. Hiện trạng hai tuyến đường Đây là hai tuyến cửa ngõ ra vào TPHCM, là hai trục phát triển công nghiệp ở vùng ven thành phố, kết nối thành phố với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và có nhiều tiềm năng phát triển. Cả hai tuyến đường đều đối mặt với các thách thức về giao thông, không gian đô thị và môi trường. Phạm vi nghiên cứu thiết kế đô thị được xác định theo điều 31 của luật Quy hoạch đô thị: dãy đất hai bên đường có bề rộng từ 100 đến 150m tính từ lộ giới. Vậy, khu vực nghiên cứu của tuyến đường Tân Sơn Nhất - Bình Lợi - Vành Đai Ngoài là 546,5 ha và Xa lộ Hà Nội là 614,5 ha. ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES 4. Trame du contenu des deux études réalisées Les projets de réaménagement des routes Tan Son Nhat / Binh Loi et de Hanoi sont menés sous la direction du DUPA en coordination avec les structures suivantes : - L’Institut de l’Urbanisme, L’Association des Architectes de HCMV, Le Comité populaire des districts, Le Département des Transports, Le Département des Ressources Naturelles et de l’Environnement, - GS (société coréenne assurant la maîtrise d’œuvre de la route). Le maître d’ouvrage est le Centre d’information sur la planification urbaine. Le Département de la Planification et le Centre d’information sur la planification ont produit deux documents synthétisant le contenu du design urbain, l’un pour le long de la route Tan Son Nhat / Binh Loi et l’autre pour le projet de la route de Hanoi, dont voici la table des matières : I. RAISONS ET NÉCESSITÉS D’ÉTABLIR LE DESIGN URBAIN 1. Raisons et nécessités d’établir le design urbain 2. Objectifs du design urbain II. BASES POUR L’ÉLABORATION DU DESIGN URBAIN 1. Bases juridiques 2. Sources de documentation et de données 3. Bases cartographiques III. CONTENU D’ÉTUDE DU PROJET DESIGN URBAIN 2. Contenu d’étude a. État des lieux du bâti et de l’utilisation du sol b. Planification de l’utilisation du sol c. Zonage fonctionnel d. Organisation de l’espace e. Définition des reculs des constructions IV. COMPOSANTS DU DOSSIER DE DESIGN URBAIN a. Documents graphiques b. Notices explicatives c. Règlement d. Maquettes V. ORGANISATION DE LA MISE EN ŒUVRE a. L’organisme d’élaboration du projet design urbain b. L’organisme d’évaluation du projet design urbain c. L’autorité d’approbation du contenu du projet de design urbain et du projet de planification 5. Situation des deux axes de communication Il s’agit de routes d’entrée et de sortie au Nord – Est de HCMV. Ces deux routes constituent les axes de développement industriel vers la périphérie de la Ville. Elles relient les provinces de la région économique du Sud et possèdent un fort potentiel de développement. Toutes deux doivent faire face aux enjeux dans le domaine des transports, de l’espace urbain et de l’environnement. Le périmètre de l’étude sur le design de ces deux voies s’établit, conformément à l’article 31 de la loi sur la planification urbaine, selon une bande de 100 à 150 m de chaque côté de la route. La route Tan Son Nhat / Binh Loi recouvre une superficie de 546,5 ha et celle d’Hanoi 614,5 ha. 1. Délimitation de l’aire d’étude 20 21 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES Đường Tân Sơn Nhất - Bình Lợi / Route Tan Son Nhat - Binh Loi Espaces verts le long de la route de Hanoi / Không gian xanh dọc theo Xa lộ Hà Nội Xa lộ Hà Nội / Route d’Hanoi Industries, dépôts, commerces et services le long de la route de Hanoi Cơ sở công nghiệp, kho hàng, thương mại và dịch vụ dọc Xa lộ Hà Nội Trung tâm chính Pôle à l’échelle municipale (pôle principal) 22 Trung tâm giáo dục và đào tạo Pôle d’éducation et de formation Trung tâm công nghiệp Pôle industriel Trung tâm phụ Pôle secondaire Trung tâm thể thao và không gian xanh Pôle sportif et espace vert Trung tâm khu vực Pôle du secteur Nút giao thông Pôle d’échange (nœud de circulation) 23 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ Cơ sở công nghiệp, kho hàng, thương mại và dịch vụ dọc Xa lộ Hà Nội 24 ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES Industries, dépôts, commerces et services le long de la route de Hanoi 25 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ 6. Một số yếu tố rút ra trong quá trình nghiên cứu a. Hồ sơ bản vẽ b. Thuyết minh đồ án c. Quy định về quản lý kiến trúc cảnh quan của đồ án: - Quy định quản lý theo đồ án quy hoạch chung gồm các nội dung chủ yếu sau đây: • Chỉ tiêu về diện tích, mật độ xây dựng, hệ số sử dụng đất và chiều cao tối đa, tối thiểu của công trình trong từng khu chức năng đô thị; • Việc kiểm soát không gian, kiến trúc các khu vực trong đô thị; • Chỉ giới đường đỏ của các tuyến phố chính, cốt xây dựng khống chế của đô thị; • Vị trí, quy mô và phạm vi bảo vệ, hành lang an toàn đối với công trình ngầm; • Khu vực cấm xây dựng, phạm vi bảo vệ, hành lang an toàn công trình hạ tầng kỹ thuật, biện pháp bảo vệ môi trường; • Khu vực bảo tồn, tôn tạo công trình kiến trúc, di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh, địa hình cảnh quan trong đô thị. - Quy định quản lý theo đồ án quy hoạch phân khu gồm các nội dung chủ yếu sau đây: • Ranh giới, phạm vi, tính chất khu vực quy hoạch; • Vị trí, ranh giới, tính chất, quy mô các khu chức năng trong khu vực quy hoạch; chỉ tiêu về mật độ xây dựng, hệ số sử dụng đất và chiều cao tối đa, tối thiểu, cốt xây dựng đối với từng ô phố; chỉ giới đường đỏ, chỉ giới xây dựng, cốt xây dựng và các yêu cầu cụ thể về kỹ thuật đối với từng tuyến đường; phạm vi bảo vệ, hành lang an toàn công trình hạ tầng kỹ thuật; • Các trục không gian chính, các điểm nhấn của đô thị. d. Mô hình tỷ lệ 1/2000 26 6. Eléments produits au cours des études a. Documents graphiques b. Explication du projet c. Règlement de gestion architecturale et paysagère : - le règlement accompagnant le schéma directeur doit inclure les contenus suivants : • Les critères de superficie, de l’emprise au sol, du coefficient d’occupation du sol, de hauteurs maximale et minimale de l’ouvrage dans chaque zone fonctionnelle de la ville ; • Le contrôle spatial et architectural dans les différentes zones de la ville ; • L’emprise des axes routiers majeurs, la cote d’élévation pour les constructions de la ville ; • La position, la taille, l’aire de protection, le corridor de sécurité pour les ouvrages souterrains ; • Les secteurs interdits aux constructions, l’aire de protection, le corridor de sécurité pour les infrastructures techniques, les solutions de protection de l’environnement ; • Les zones de préservation, d’embellissement architectural, les vestiges historiques et culturels ainsi que les sites remarquables. - Le règlement accompagnant le plan de zonage doit inclure les contenus suivants : ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES Sơ đồ phân khu chức năng đường Tân Sơn Nhất - Bình Lợi Projet de plan de zonage fonctionnel le long de l’axe Tan Son Nhat / Binh Loi Terrain pour le commerce, service et bureau Terrain pour le commerce, service et logement Terrain résidentiel avec commerce et service existant Terrain résidentiel avec commerce et service à développer Terrain résidentiel existant Terrain résidentiel existant et à développer Espace ouvert dans les quartiers résidentiels Terrain réservé à la plantation des arbres Gare Binh Trieu. Đất thương mại, dịch vụ và văn phòng Đất thương mại, dịch vụ và nhà ở Đất ở kết hợp thương mại và dịch vụ hiện hữu Đất ở kết hợp thương mại và dịch vụ sẽ phát triển Đất ở hiện hữu Đất ở hiện hữu và sẽ phát triển Không gian mở trong các khu dân cư Đất dành cho việc trồng cây Nhà Ga Bình Triệu Tiêu đề • Les limites, l’aire et le caractère des zones à planifier ; • La position, les limites, le caractère et les dimensions des zones fonctionnelles de l’aire à planifier; les normes de l’emprise au sol, du coefficient d’occupation du sol, les cotes d’élévation pour chaque îlot; les servitudes d’utilité publique, les reculs de construction et les spécifications techniques concrètes pour chaque rue; l’aire de protection et le corridor de sécurité des infrastructures techniques ; • Les principaux axes spatiaux, les ouvrages de repère de la ville. d. Maquette à l’échelle 1/2 000e 27 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ 7. Quản lý tạm thời a. Mục tiêu - Đảm bảo quản lý chặt chẽ và đồng bộ các hoạt động xây dựng và đầu tư trong suốt thời gian lập thiết kế đô thị. - Ổn định môi trường và các hoạt động xây dựng của người dân - Kết hợp hài hòa giữa thiết kế đô thị với quy hoạch chung và quy hoạch chi tiết đang thực hiện. - Đảm bảo tính khả thi của thiết kế đô thị. b. Giải pháp Đối với nhà ở riêng lẻ của người dân: nếu nằm trong khu dân cư hiện hữu cần cải tạo, thì cho phép xây dựng theo Quyết định 45. Thông qua thiết kế đô thị, cải thiện điều kiện sống của người dân và phát triển các hoạt động kinh tế một cách hài hòa trong môi trường kiến trúc và cảnh quan tốt. Để đạt được điều này, cần tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông, phát huy giá trị đất dọc theo các tuyến đường và đảm bảo hài hòa giữa bảo tồn di sản, đặc trưng riêng với việc khai thác giá trị quỹ đất và các hoạt động xây dựng. ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES b. Solutions 7. Gestion provisoire a. Objectifs - Assurer la gestion stricte et cohérente des activités de construction et d’investissement pendant la période de l’élaboration du plan d’aménagement. - Stabiliser l’environnement et les activités de construction des habitants. - Coordonner le design urbain avec le schéma directeur et les plans détaillés en cours de réalisation. - Assurer la faisabilité du design urbain. Concernant les maisons individuelles dans les quartiers résidentiels existants : les constructions sont autorisées conformément à la Décision 45. Il s’agit donc, à travers ces projets de design urbain, d’améliorer les conditions de vie des habitants et de développer les activités économiques de façon cohérente dans un environnement architectural et paysager de qualité. Pour cela, il convient de favoriser la circulation, de mettre en valeur le foncier le long des voies et d’assurer un équilibre entre la sauvegarde du patrimoine et de l’identité d’une part et l’exploitation du foncier avec l’implantation de bâtiments d’activités d’autre part. Modèle de W.Isart (1955) / Mô hình W.Isart (1955) Mô hình hỗn hợp của W.ISART (1995) Centre (CBD) Quartier résidentiel Zone industrielle Axes de circulation Centre de commerce 28 29 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ Nhận xét và trao đổi Ông Jean-Charles Castel: So với lần đầu tiên tôi đến công tác ở TPHCM, hiện nay, các mối quan tâm của thành phố đã có nhiều thay đổi. Trước kia, các đơn vị của Thành phố chỉ quan tâm đến chiều cao của công trình xây dựng. Hiện nay, thành phố quan tâm đến thiết kế đô thị. Điều này đòi hỏi không chỉ chú ý đến chiều cao, hình dáng, công năng của công trình mà còn phải quan tâm đến không gian công cộng, di sản và sự phát triển kinh tế. Khía cạnh này có vẻ khá khó khăn, đặc biệt là việc thu hồi giá trị gia tăng của đất. Dù phức tạp, nhưng trong công tác tổ chức cần phân biệt hai ê-kíp: một ê-kíp đảm trách công tác quản lý nhà nước đối với các công trình đã xây dựng và một ê-kíp thực hiện các dự án đặc biệt. Mở rộng một tuyến đường là một dự án đặc biệt và khó thực hiện. Việc phê duyệt dự án được trình bày dưới dạng hình ảnh tĩnh sẽ gây khó khăn cho các cán bộ kỹ thuật vì khó tìm được giải pháp phù hợp cho từng đoạn đường. Ở Pháp, các cán bộ kỹ thuật cũng đã gặp phải những khó khăn tương tự như vậy, nên hiện nay trong thiết kế đô thị, các nhà thiết kế dựa trên mô hình trên máy tính vì các mô hình này có thể điều chỉnh cho phù hợp với tình hình một cách dễ dàng. Ở Pháp, các dự án mở rộng đường giao thông rất phổ biến trong thập kỷ 70 của thế kỷ trước. Nhưng hiện nay, trước sự kháng cự của người dân hai bên đường và do chi phí bồi thường giải phóng mặt bằng rất lớn, nên chính quyền thường làm đường vòng và áp dụng chính sách điều tiết giao thông. Việc xác định rõ các ưu tiên trong chính sách của nhà nước là tối quan trọng. Xác định rõ nhu cầu là rất cần thiết để đưa ra các lựa chọn trong thiết kế đô thị. Ví dụ, chúng ta muốn ưu tiên cho chất lượng lối đi dành cho người đi bộ hay cho giao thông cơ giới? Giải pháp cho hai vấn đề này không tương thích với nhau, do đó không thể thực hiện đồng thời. Ngoài ra, việc lựa chọn ưu tiên nào cũng phụ thuộc vào từng khu vực. Các chính trị gia thường đưa ra những yêu cầu mà bản thân các yêu cầu đó đôi khi mâu thuẫn với nhau. Do đó, nhiệm vụ của cán bộ kỹ thuật là làm ra các mô hình với nhiều tham số khác nhau trong cùng một dự án để giúp các chính trị gia đưa ra lựa chọn và quyết định phù hợp nhất. Từ đó, ta thấy được tầm quan trọng của việc trao đổi, đối thoại giữa chính trị gia với cán bộ kỹ thuật để đưa ra giải pháp phù hợp cho từng khu vực và từng ô phố. Hiện nay, giống như quá trình phát triển của tất cả các thành phố lớn trên thế giới, TPHCM đang ở giai đoạn dành ưu tiên cho giao thông cơ giới. Một bên là giới doanh nhân luôn mong muốn phát triển nhà cao tầng, tòa nhà văn phòng và giao thông cơ giới. Bên kia là khách du lịch mong muốn có các khu phố đi bộ. Cả hai nhóm này đều là thành phần kinh tế quan trọng. Do đó, cần xem xét để tìm ra giải pháp tốt nhất cho từng khu vực. ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES Remarques et échanges M. Jean-Charles Castel remarque que depuis ses premières venues, il y a eu une réelle évolution dans les préoccupations. Auparavant, l’intérêt de ses interlocuteurs vietnamiens concernait essentiellement la hauteur des tours. Aujourd’hui, il reste à aborder la partie conception de l’urbanisme. Elle consiste à prendre en compte aussi bien l’espace public, le patrimoine, le développement économique que les types et formes de bâtiments liés à chaque usage, ou à des usages mixtes. Cet aspect peut être difficile à mettre en place, notamment en ce qui concerne la récupération de la plus-value foncière. Il apparaît alors complexe mais nécessaire de mettre en place une organisation interne qui distinguerait ce qui relève de la gestion quotidienne des bâtiments ordinaires par les services, de ce qui relève de la composition d’une équipe projet spécifique pour une opération exceptionelle. Les représentants politiques aiment utiliser des images et représentations dans leur stratégie de communication. Or, pour qu’elle soit représentative du réel, il est nécessaire de mobiliser des équipes pluridisciplinaires compétentes tant sur le fond que sur la forme, car un élargissement d’axe constitue un acte exceptionnel et très fastidieux à réaliser. Néanmoins, l’organisation de la ville est complexe, et ne peut être représentée par une simple image qui relève de l’exceptionnel. Cette difficulté se retrouve dans le problème que soulève la fabrication de maquettes, dit « le syndrome de la maquette ». Très souvent les techniciens passent beaucoup de temps à faire valider les mesures par les politique. Or, on se rend compte qu’après seulement quelques années, la réalité rattrape la maquette qui devient alors désuète. La validation du projet tel qu’il apparaît figé dans la maquette a tendance à piéger les techniciens, car il rend difficile l’exploration de variantes et solutions alternatives adaptées à chaque tronçon. En France, les techniciens ont été confrontés aux mêmes difficultés. Aujourd’hui en matière de design urbain, les concepteurs s’appuient davantage sur des les simulations informatiques ont ainsi tendance à être privilégiées, car celles-ci peuvent être modifiées aisément et plus facilement corrigées et adaptées. En France, les projets d'élargissement de voies ont été très répandus jusqu’aux années soixante-dix. Maintenant, devant la résistance des riverains et des coûts énormes de ces transformations en termes d’indemnisation des propriétaires, on recourt plutôt à la création d’autres voies de contournement et 30 de politiques de régulation du trafic. Actuellement en France et en Europe, au lieu d’élargir une voie, la solution d’en créer une autre est privilégiée. En effet, de telles opérations complexes et globales représentent moins de 5% de l’aménagement contre 95% d’opérations qui suivent des procédures classiques. Ces opérations complexes qui ont trait au remaniement foncier, au volet socio-économique ou encore à l’espace public soulèvent un paradoxe : Même si proportionnellement elles ne concernent que très peu de projets d’aménagement, ces opérations (et le contenu qu’elles impliquent) représentent un poids important sur le plan politique et celui de la communication. Par ailleurs, ce type d’opération manque souvent de souplesse, se heurtant à la rigidité administrative lorsqu’il s’agit d’allier décisions politiques et décisions durables capables d’assurer qualité et adaptabilité au projet au fur et à mesure de son avancement. On constate qu’une réglementation stricte ne suffit pas à générer de la qualité urbaine. Dès lors, en France, certaines réglementations ont été allégées voire supprimées. Il s’agit également de mettre en place du personnel compétent. Dès lors, en France, une des solutions consiste à se concentrer sur la volonté de maintenir les techniciens dans les services afin de tirer parti des formations dispensées. La problématique de la production de la qualité urbaine s’articule autour de la méthodologie : les efforts doivent ils se concentrer d’avantage sur : - les règlements et textes juridiques, - la formation du personnel - le développement des outils Par ailleurs, la clarification des priorités politiques est primordiale. Une bonne identification de la demande est nécessaire derrière le choix de design urbain. Par exemple, veut-on privilégier la qualité du cheminement piéton ou alors la qualité de la circulation ? Les deux solutions ne sont pas compatibles, elles ne peuvent donc pas être menées de front, d‘autre part la solution dépend des quartiers. Bien entendu les incohérences des discours politiques (qui peuvent demander à mettre en place deux solutions incompatibles en même temps) viennent s’ajouter aux difficultés. Le politique formule souvent des demandes incompatibles entre elles; il appartient alors aux techniciens de faire des simulations de plusieurs variantes du projet pour amener le politique politique à hiérarchiser ses choix et à prendre les décisions les mieux adaptées. Ce genre de contradictions vient souligner l’importance 31 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ Hỏi: Ông có giải pháp gì đề xuất cho TPHCM. Mở một tuyến đường mới ở khu vực chưa có dân cư thì dễ, nhưng ở khu đô thị hiện hữu phải đối mặt với đền bù, giải tỏa. Vậy phải làm thế nào? Ông Jean-Charles Castel: Hiện nay, ở tất cả các quốc gia trên thế giới, việc mở rộng các tuyến đường hiện hữu là một ngoại lệ. Chỉ có Trung Quốc tiếp tục mở rộng đường giao thông nhờ sự phát triển kinh tế mạnh mẽ. Nhìn chung, việc xây dựng mới một tuyến đường mới ở phía sau các ô phố sẽ ít tốn kém hơn so với mở rộng tuyến đường hiện hữu vì giá đất ở khu vực phía sau các ô phố rẻ hơn. Thật vậy, khi mở rộng một tuyến đường hiện hữu, giá trị của các lô đất mặt tiền rất lớn. Do đó, giá trị đền bù cho các lô đất này rất cao. Hỏi: Làm thế nào để tài liệu quy hoạch sát với thực tiễn? Đáp: Điểm yếu của các bản vẽ và sa bàn là không linh hoạt. Để các quy định về quy hoạch phù hợp với thực tế, thì cần đưa ra ít quy định và chỉ tập trung vào điểm thiết yếu. Ở Trường kiến trúc, tôi dạy cho sinh viên thiết kế các tòa nhà có thể được biến đổi theo thời gian. Một vài quy định cứng cho phép đảm bảo tính hài hòa về cảnh quan đô thị ở một mức độ nhất định, nhưng yêu cầu về mật độ phụ thuộc quá nhiều vào các tham số khác ngoài kiến trúc (kinh tế, thị trường bất động sản…) để có thể cố định trước chiều cao và kiểu dáng của công trình. Ông Huỳnh Xuân Thụ: quy chế giúp tạo sự bình đẳng và giúp cho chính quyền chống đầu cơ đất đai, tham nhũng và tạo sự hài hòa trong cảnh quan. Ông Castel: ở Anh, quy chế quản lý kiến trúc đô thị chỉ có hai trang. Mặc dù vậy, nhưng ở Anh không có tham nhũng trong lĩnh vực này. Tham nhũng không phụ thuộc vào độ dài và tính chính xác của bản quy chế. Tất cả các cơ quan nhà nước đều đối mặt với vấn đề này từ nhiều thế kỷ nay. Có hai điều kiện không thể thiếu trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng: 1) Tính minh bạch của các quyết định. Các quyết định phải được ban hành bằng biểu quyết và có sự đồng thuận của các bên (người dân, nhà báo, chuyên gia…). 2) Mức lương thỏa đáng cho cán bộ, công chức để họ không phải kiếm thêm thu nhập. Nhưng để làm điều này, cần có thời gian dài. Có thể áp đặt các quy định về chất lượng không gian bên ngoài đối với nhà đầu tư. Nhưng nếu ta áp đặt các quy định nhằm giảm diện tích sàn xây dựng dự kiến (tức giảm lợi nhuận kỳ vọng), thì nhà đầu tư sẽ tìm cách làm thay đổi quy định theo hướng có lợi cho họ. Vì quy trình ra quyết định ban hành quy chế quản lý kiến trúc đô thị không minh bạch, nên nhà đầu tư và người bán đất đầu cơ về chiều cao và mật độ. Hỏi: Loại hình kiến trúc nào có thể được xây dựng dọc theo các tuyến đường? Đáp: Câu trả lời tùy vào đặc điểm của tuyến đường: - Nếu tuyến đường dành cho xe hơi lưu thông, thì bề rộng sẽ khá lớn và có thể xây dựng tòa nhà cao tầng với mật độ cao và khoảng lùi lớn. - Nếu tuyến đường dành cho người đi bộ, thì các công trình có thể được xây dựng san sát nhau để người đi bộ dễ dàng tiếp cận các cửa hàng thương mại. ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES du dialogue avec le politique, l’obligeant à choisir des solutions tranchées dans chaque quartier et chaque îlot. Actuellement les autorités politiques à HCMV consacrent la part belle aux véhicules motorisés, de la même façon que dans l’évolution de toutes les grandes villes du monde. D’un côté, les hommes d’affaires souhaitent voir fleurir de grandes tours de bureaux traversées par des autoroutes ; et de l’autre, les touristes souhaitent des quartiers piétons. Ces types d'acteurs acteurs représentent une économie non négligeable, il s’agit donc de regarder quelles sont les meilleures solutions à adopter quartier par quartier. Un participant demande à M. Castel quelles solutions il peut proposer par rapport au contexte d’HCMV. Créer une rue est simple sur les zones où il n’y a pas encore d’habitant mais comment procéder lorsque l’on intervient dans le tissu urbain existant et que la question de l’expropriation et des indemnisations se pose ? M. Castel explique qu’actuellement, dans tous les pays du monde l’élargissement des rues est exceptionnel. Aujourd’hui, seule la Chine élargit ses voies du fait de sa forte expansion économique. Mais en règle générale il coûte moins cher de créer une voie et d’exproprier pour construire un nouvel axe en arrière d’îlot, car la valeur économique est moins importante dans cette zone. En effet, lorsque l’on élargit un axe existant, la valeur des parcelles qui donnent sur la rue est déjà importante. Il en coûtera donc plus pour exproprier des parcelles ayant une valeur économique déjà forte. Un participant souhaite revenir sur la question de la maquette : quelles sont les solutions, comment faire pour que les plans de réalisation et la maquette soient au plus près de la réalité ? M. Castel répond qu’il faut prendre le problème à l’envers. Le défaut des maquettes est qu’elles ne sont pas assez adaptables. La maquette est déjà trop contrainte. Or, il s’agit d’adapter en permanence la réalité avec les quelques règlements mis en place. A l’école d’architecture, étant professeur en urbanisme, j’apprends à mes élèves à dessiner des bâtiments qui peuvent évoluer tout le temps. Les quelques règles fixées permettent alors d’assurer une certaine harmonie dans le paysage urbain, mais les contraintes de densité dépendent beaucoup trop de paramètres indépendants de l’architecture elle-même (marché économique, pression foncière etc…) pour que l’on puisse fixer en totalité à l’avance la forme et la hauteur des immeubles. 32 M. Thu explique qu’il s’agit de créer une égalité à travers le règlement, qui permet aux autorités de lutter contre la spéculation, la corruption et la nonconformité du paysage envisagé. M. Castel répond qu’en Angleterre, le règlement urbain est contenu sur seulement deux pages, et que malgré tout il n’existe pas de corruption là-bas. Si le règlement est très strict, même s’il n’y a pas de corruption à l’intérieur du règlement, les corrupteurs font pression sur les acteurs clés afin qu’ils changent le règlement. Au final, le règlement est toujours instable. La corruption n’est pas liée à la longueur du règlement ni à la précision des règles. Tous les services publics ont été confrontés à cette question depuis des siècles. Afin d’y remédier, les solutions sont les suivantes : les deux moyens indispensables pour lutter contre la corruption sont : 1) La transparence des décisions, qui doit être prise dans la collégialité et le consensus (habitants, journalistes, techniciens...) ; 2) Un bon salaire pour les fonctionnaires afin qu’ils ne cherchent pas à gagner de l’argent supplémentaire et ainsi éviter la corruption. Mais une telle réforme par le haut est un travail de longue haleine. Les investisseurs ne se préoccupent pas de la qualité, il est donc possible de leur imposer des règles sur la qualité des espaces extérieurs. En revanche, si on tente de leur imposer des règles qui diminuent la surface construite prévue et donc le profit espéré, ils n’adhéreront pas au projet et chercheront à faire modifier le règlement dans le sens de leurs intérêts. Comme le processus de décision des règles d’urbanisme n’est pas transparent et qu’il existe des voies de corruption, les investisseurs comme les vendeurs de foncier spéculent à la hausse sur l’augmentation des hauteurs et des densités. Un participant interroge M. Castel sur les typologies de bâti que l’on peut implanter le long des voies. M. Castel explique que la réponse est liée à la typologie de la voie : - Dans le cas d’une voie dédiée aux véhicules, l’axe sera d’une taille imposante et pourra accueillir, des immeubles de grande hauteur occupant une grande emprise au sol avec un fort recul sur la parcelle afin de constituer un quartier d’affaire. - Dans le cas d’une voie dédiée aux piétons, le bâti sera implanté en bordure de parcelle de façon resserrée pour que les piétons puissent accéder aux commerces. 33 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES PHẦN 2 – KINH NGHIỆM CỦA PHÁP, CHÂU ÂU VÀ MỸ TRONG THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TUYẾN ĐƯỜNG MỚI MỞ PARTIE 2 – EXPÉRIENCE FRANCAISE, EUROPÉENNE ET AMÉRICAINE DANS LE DESIGN URBAIN DES NOUVEAUX AXES I. Chính sách quy hoạch mạng lưới đường giao thông và việc phê duyệt quy hoạch I. Les politiques d’aménagement de voirie et les validations 1. Làm thế nào đưa các chính sách này vào các tài liệu quy hoạch 1. Comment les inscrire dans les documents d’urbanisme Ở Châu Âu, các cuộc thảo luận công khai, dân chủ về quy hoạch đô thị buộc các chính trị gia phải đưa ra quy định về quản lý quy hoạch và kiến trúc đô thị một cách minh bạch. Le débat démocratique, qui a cours en Europe à propos de l’aménagement urbain, oblige le politique à expliciter ses objectifs de façon claire à fixer les règles d’urbanisme de façon transparente. Au Vietnam, la faiblesse réside dans ce manque de processus démocratique qui mène à des objectifs souvent contradictoires. Ở Pháp, Bản đồ quy hoạch đô thị địa phương là tài liệu duy nhất có giá trị pháp lý đối với mọi chủ thể. Bản quy hoạch này rất chi tiết và cụ thể cho phép biết chính xác chỉ tiêu quy hoạch đối với từng lô đất. Trên bản đồ này ta thấy có nhiều yếu tố gắn với một ô phố: công trình xây dựng, công trình kiến trúc lịch sử cần bảo tồn, hàng cây. Ngoài ra, phạm vi khu vực dành cho dự án công ích, đặc biệt là dự án mở rộng đường giao thông hoặc mở một tuyến đường mới, được xác định rõ ràng. Trong bản quy chế về quản lý quy hoạch, đặc điểm và chức năng của từng tuyến đường đang lập dự án được xác định rõ ràng. Sau đó, các dự án đều lấy ý kiến người dân1 và ai cũng có thể đóng góp ý kiến. Nếu số ý kiến phản đối không chiếm đa số, thì thông thường dự án sẽ được phê duyệt. On observe sur le plan que le parcellaire est agrémenté d’une série d’éléments tels que le bâti, les immeubles et monuments historiques protégés, les cours intérieures comportant des arbres à protéger ainsi que les alignements d’arbres. On constate en particulier la délimitation d’une série d’emplacements réservés pour des projets d’intérêts publics, notamment des zones réservées à l’élargissement de voies ou à la création de voies traversant des îlots. Dans les documents réglementaires, les caractéristiques et la fonction de chaque voie en projet sont clairement définies. Le projet est ensuite soumis à une enquête publique1 durant laquelle chaque citoyen peut venir s’exprimer. S’il n’y a pas d’opposition majeure, le projet est généralement validé. L’enquête publique vise à - informer le public - recueillir, sur la base d'une présentation argumentée des enjeux et parfois d'une étude d'impact, ses avis, suggestions et éventuelles contre-propositions. - élargir les éléments nécessaires à l’information du décideur et des autorités compétentes avant toute prise de décision. Thông thường, cuộc khảo sát này được thực hiện theo quyết định của Tỉnh trưởng và được triển khai trên địa bàn chịu ảnh hưởng của dự án. Mọi người (không phân biệt tuổi, quốc tịch) đều có thể biết thông tin về dự án, đóng góp ý kiến (kể cả ý kiến phản biện) và đề xuất cho dự án. En général engagée par le Préfet, et organisée dans la (ou les) mairie(s) concerné(es) par le projet, l’enquête publique est ouverte à tous (sans restriction d'âge ou de nationalité). Chacun peut s'y informer du projet et exprimer son avis, ses suggestions et d'éventuelles contre propositions. 1 34 Ví dụ Bản đồ quy hoạch đô thị của Lyon, trích bản đồ quy hoạch của một khu vực Le PLU en France constitue le seul document qui ait une valeur juridique pour les particuliers. Il s’agit du document d’urbanisme le plus précis, qui permet de connaître les droits à bâtir sur chaque parcelle. Khảo sát ý kiến công khai nhằm: - Thông báo cho mọi người biết - Thu thập ý kiến, gợi ý, kể cả ý kiến phản biện của mọi người đối với đề án nghiên cứu các thách thức và tác động của dự án. - Cung cấp thêm thông tin cho lãnh đạo và các cơ quan có thẩm quyền trước khi ra quyết định. 1 Exemple du PLU de Lyon, extrait d’un plan de zonage réglementaire 35 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ Trên thực tế, có rất ít dự án mở rộng đường giao thông vì người dân hầu như không đồng ý với một dự án làm xáo trộn cuộc sống và khu phố của họ. Nếu có ý tưởng về dự án mở rộng đường, thì người dân đòi hỏi chính quyền phải có những lập luận xác đáng và vững chắc. Do đó, để làm được một dự án như vậy, chính quyền phải xác định ngay từ đầu các mục tiêu thật rõ ràng. Lập luận cho rằng mở rộng đường sẽ làm cho giao thông thông thoáng hơn không còn tính thuyết phục nữa. Thật vậy, lập luận này đã được đưa ra cách đây 20 năm và hiện nay thực tế đã chứng minh nó không đúng: càng mở rộng đường, mật độ lưu thông càng tăng. Tuyến đường được mở rộng giống như hiệu ứng cái phễu, nó sẽ hút dòng xe từ các tuyến đường xung quanh vào. Trong nghiên cứu trình bày ở phần đầu của khóa học (dự án thiết kế đô thị tuyến đường Xa lộ Hà Nội), tính ưu tiên được xác định rõ: tăng khả năng thông xe của tuyến đường. Điều này hợp lý vì không có nhà ở hai bên đường. Các tòa nhà thương mại và văn phòng sẽ được xây dựng dọc hai bên đường. Giải pháp này giúp phát triển nhà ở tại các ô phố bên trong và các phương thức giao thông mềm tại đây (đi bộ, xe đạp, giao thông công cộng). Từ đó, giúp hạn chế tác động tiêu cực của giao thông cơ giới cá nhân và giúp thiết kế được không gian công cộng có chất lượng. Nhận xét và trao đổi Hỏi: Trong quá khứ, ở Pháp đã từng mở rộng đường giao thông. Ông có thể chia sẻ kinh nghiệm về việc này và chính quyền ở Pháp đã thương lượng với người dân như thế nào? Cơ chế giữ đất cho công trình công ích ở Pháp như thế nào? Chính quyền có thể giữ đất đó bằng quy hoạch trong bao lâu? Nếu không thực hiện dự án, thì giải quyết như thế nào? Ở TPHCM quy hoạch chỉ giữ đất được trong 3 năm. Đáp: Ở Pháp, việc mở rộng đường giao thông được thực hiện sau Thế chiến 2 và do chính quyền trung ương thực hiện theo cách áp đặt, không có sự tham gia của người dân. Nếu có sự tham gia của người 36 dân, thì việc mở rộng đường đã không được thực hiện một cách dễ dàng. Ở Pháp, 20 năm sau khi Thế chiến 2 kết thúc vào năm 1945, đô thị phát triển rất mạnh. Tương tự như ở Việt Nam, 20 năm sau khi kết thúc chiến tranh vào năm 1975, đô thị cũng phát triển rất mạnh. Hiện nay, Việt Nam bắt đầu có sự tham gia ngày càng mạnh của người dân trong quá trình ra quyết định của chính quyền và đang trong thời kỳ chuyển đổi mạnh. Ở Pháp, thời gian giữ đất theo quy hoạch là không có giới hạn. Kết quả là trên bản đồ quy hoạch số đất quy hoạch nhiều hơn khả năng thanh toán của chính quyền địa phương. Khi một lô đất nằm trong khu vực quy hoạch, thì chủ sở hữu không thể tiến hành xây dựng, mà chỉ có thể bán cho chính quyền và chính quyền nếu đã quy hoạch thì bắt buộc phải mua. Nếu chủ sở hữu quyết định bán trong thời điểm chính quyền có đủ tiền, thì chính quyền sẽ mua. Nếu không mua, chính quyền phải xóa quy hoạch. Khi đó, chủ sở hữu sẽ lại có quyền được xây dựng hoặc bán cho bất kỳ ai. 2. Làm thế nào để giải quyết mâu thuẫn giữa công bố và minh bạch hóa chính sách trước tình trạng đầu cơ Ở Pháp, tính minh bạch trong quy hoạch được giải quyết như thế nào trong quy hoạch trước áp lực đầu cơ? - Trong trường hợp thành phố có dự án quy hoạch và công bố rộng rãi, thì trước đó thành phố đã mua đất rồi để tránh trở thành nạn nhân của giới đầu cơ đất đai. - Trong đa số trường hợp (99%), việc chính quyền mua đất được thực hiện một cách âm thầm thông qua thương lượng với chủ sở hữu. Điều này giúp chính quyền dễ thương lượng hơn và tránh không phát tín hiệu cho giới đầu cơ. Trên lý thuyết, chính quyền phải công bố quy hoạch trước khi mua đất, nhưng trên thực tế, chính quyền thường cần phải mua các khu đất chiến lược trước khi công bố dự án để kiểm soát được giá đất. ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES En réalité, peu de projets d’élargissement de voirie voient le jour car les habitants sont rarement d’accord avec un projet venant bouleverser leur vie et leur quartier. Lors d’une telle proposition de projet, les habitants exigent des arguments solides de la part du politique. Celui-ci se retrouve donc obliger d’établir et de définir clairement en amont les objectifs et le bien fondé d’une telle entreprise. L’argument qui consiste à dire qu’élargir une voie va fluidifier le trafic ne fonctionne plus car cet argument utilisé il y a 20 ans est aujourd'hui invalidé : plus on élargit les voies, plus le trafic augmente. L’élargissement des voies a un effet d’entonnoir qui attire le trafic venant des alentours. Dans l’étude de cas posée en première partie de l’atelier, la négociation est claire. Elle consiste à dire que sur ces voies, on augmente le trafic mais ce n’est pas grave car il n’y a pas d’habitations le long de ces axes. Des immeubles de commerces et de bureaux seront implantés le long des voies. Cette stratégie permet de densifier les cœurs d’îlots avec des logements, et d'y décharger le trafic laissant place aux modes de circulations doux (piétons, vélos, transports en communs). Ceci permet de préserver les habitations des nuisances des véhicules et de concevoir des espaces publics de qualité. Remarques et échanges Un participant revient sur le fait qu’à une période en France, l’élargissement des voies était pratiqué. Il souhaiterait que M. Castel partage cette expérience et explique comment les pouvoirs publics négociaient alors avec les habitants. Il souhaiterait également savoir comment marche le mécanisme de réserve foncière. Combien de temps un terrain peut-être considéré « réserve foncière » ? Que se passe t-il si le projet ne se réalise pas ? A HCMV, la réserve foncière n’est valable que 3 ans. M. Castel explique que les élargissements de voirie se sont faits après la seconde guerre mondiale, de façon autoritaire par l’Etat et sans participation des habitants. Si l’Etat avait demandé l’avis des citoyens, il n’aurait sûrement pas été possible d’effectuer ces élargissements aussi aisément. Aujourd’hui il est possible d’établir un parallèle historique entre la France et le Vietnam. En effet, en France, le développement urbain a explosé 20 ans après la fin de la seconde guerre mondiale en 1945 tout comme l’urbanisation. De même on assiste ici à un fort développement urbain 20 ans après la fin de la guerre du Vietnam en 1975. Le Vietnam commence aujourd’hui à sortir d’un régime d’Etat très autoritaire et les habitants pèsent de plus en plus sur les décisions prises par le politique. On assiste à une transition forte impliquant un redémarrage économique, un changement de génération au pouvoir, etc. Pour répondre à la seconde question, M. Castel explique qu’il n’y a pas de limite quantitative dans la réservation foncière en France. Il en résulte que le PLU contient plus de réserves foncières qu’il n’en faut et que la municipalité a réellement les moyens de payer. Quand un terrain est réservé, le propriétaire ne peut pas y construire. Il est seulement autorisé à vendre son terrain à la collectivité qui est alors obligée de l’acheter. Si cela tombe dans une période pendant laquelle la mairie a suffisamment d’argent, alors elle achète le terrain. Si ce n’est pas le cas, et qu’elle ne peut pas le racheter quand le vendeur décide de vendre, alors elle doit abandonner la réserve. La prescription de réserve foncière est levée et le propriétaire retrouve sa liberté de construire ou de vendre à qui il l’entend. 2. Comment gérer la contradiction de l’affichage et de la transparence des politiques face aux spéculations En France, comment est traitée la transparence, en matière de réserve foncière, face à la spéculation ? - Dans le cas où la réserve foncière est affichée au grand public : en amont, la collectivité s’est doté d’outils juridiques et réglementaires nécessaires à l’acquisition du foncier – même contre l’avis du propriétaire. Souvent, avant que les terrains ne fassent l’objet de procédures réglementées (comme c’est le cas pour les emplacements réservés), la collectivité a déjà acquis une majorité de terrains limitrophes aux voies, sachant que la valeur du foncier augmentera dans ce secteur où le projet d’aménagement voulu par la municipalité est connu et affiché, la puissance publique a intérêt à avoir acquis l’essentiel des terrains avant, pour ne pas se trouver victime de la spéculation foncière. 37 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ - Nhiều chuyên gia Châu Âu cho rằng nên phát triển đô thị dọc theo các trục giao thông công cộng bằng cách quy hoạch các trục này trước rồi sau đó xác định mật độ của các tòa nhà dọc theo hai bên. Đây là cách thiết kế đô thị khá ngây thơ. Nhà quy hoạch đô thị đầu tiên thực hiện phương pháp thiết kế đô thị này là Giám đốc kỹ thuật của Thành phố Madrid vào đầu thế kỷ XX. Đến khi kết thúc sự nghiệp của mình, ông đã kết luận rằng: Trong nền kinh tế thị trường và dân chủ, không thể áp dụng mô hình nói trên được. Thật vậy, việc chính quyền công khai kế hoạch hành động của mình sẽ thúc đẩy các nhà đầu tư đầu cơ. Sau khi công bố quy hoạch, thì đất dọc theo các trục giao thông đó sẽ tăng giá rất cao đến nỗi chính quyền không thể thực hiện được dự án đã công bố nữa. Và như vậy hiện tượng đô thị hóa sẽ vượt khỏi tầm kiểm soát của chính quyền. Chính vì thế, vào thời đó, tất cả các nhà quy hoạch đô thị hàng đầu trên thế giới đều chỉ trích kinh tế thị trường và đều đặt niềm tin và hy vọng vào chủ nghĩa cộng sản. Việc xây dựng tuyến metro D ở Lyon là một ví dụ tiêu biểu. Tuyến Metro này được đầu tư bằng ngân sách nhà nước. Sau đó, một nghiên cứu đã chứng minh rằng lẽ ra tuyến metro này có thể được đầu tư bằng giá trị tăng lên của các lô đất ở hai bên. Điều này chứng tỏ bản chất của mô hình này là bất công vì tuyến metro được đầu tư bằng ngân sách nhà nước, tức là từ tiền của người đóng thuế, nhưng lại chỉ làm giàu cho một số người có đất dọc hai bên tuyến đường này. Do đó, vấn đề ở các nước theo mô hình sở hữu tư nhân là làm thế nào để các chủ sở hữu đất, những người giàu lên nhờ nhà nước đầu tư xây dựng công trình công cộng, phải đóng góp cho nhà nước. Ví dụ duy nhất về đô thị hóa thành công, theo đúng quy hoạch dọc theo các trục giao thông công cộng được thực hiện vào khoảng năm 1930 tại thành phố Volgograd ở Liên Xô cũ. Trong một giai đoạn nhất định, Liên Xô cũ là nước duy nhất thành công trong phát triển đô thị theo đúng quy hoạch dọc theo các trục giao thông vì trong giai đoạn đỉnh cao của chủ nghĩa cộng sản, Liên Xô cũ đã thành công trong việc xóa bỏ tình trạng đầu cơ đất đai và kiểm soát được chỗ ở cũng như dân số. Hiện nay, trong lĩnh vực quy hoạch đô thị, có hai mô hình đang tồn tại song song và mang tính bổ sung cho nhau: - Mô hình kế hoạch hóa và tập thể hóa kế thừa từ các nước theo chủ nghĩa cộng sản, ví dụ: Liên Xô cũ. Mô hình này cho phép tổ chức quy hoạch đô thị và xóa bỏ đầu cơ đất đai, nhưng không tạo ra được của cải vật chất một cách tối đa. - Mô hình dân chủ và tư bản chủ nghĩa ở phương tây: hiệu quả hơn về mặt đầu tư và tạo ra của cải vật chất, nhưng làm nảy sinh tình trạng đầu cơ đất đai và gây xáo trộn cho các dự án. ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES - Toutefois, dans la plupart des cas (99%), la collectivité acquiert des terrains à l’amiable. Les acquisitions foncières se font de façon discrète a l’amiable, sans affichage public, ce qui donne plus de liberté à la collectivité et évite de donner un signal aux spéculateurs. La théorie voudrait que l’affichage du projet urbain précède la politique foncière, mais il est souvent nécessaire de conduire les acquisitions foncières stratégiques avant de dévoiler les enjeux de projet urbain pour rester maître des prix fonciers. La collectivité pilote ainsi une stratégie d’acquisitions foncières confidentielles lui permettant de développer ses propres projets. Dès lors, en France, tout ne se fait pas dans la transparence la plus totale. En effet, trop de transparence jouerait contre la collectivité elle-même. L’exemple de jeunes maires en France qui affichent de façon très démocratique tous les projets publics à venir montre bien que ce n’est pas de l’intérêt de la collectivité de dévoiler au grand jour sa stratégie de mise en œuvre de projets urbains ; puisque les investisseurs ont acheté tous les terrains destinés aux projets, développant ainsi la spéculation et bloquant la réalisation des projets. C’est pourquoi la collectivité doit développer une stratégie d’acquisition foncière en achetant des terrains à l’amiable dans le secret et surtout de la manière la moins concentrée possible pour ne pas être découvert et éveiller l’intérêt des spéculateurs. De ce deuxième cas de figure se dégage un paradoxe qui veut que l’urbanisme qui fonctionne le mieux n’est pas le plus règlementé ni le plus bridé. En Occident, les pays démocratiques se retrouvent confrontés eux aussi à leur propre paradoxe. Beaucoup d’experts européens expliquent qu’il faut organiser la ville à partir des transports en commun, en disant qu’il faut d’abord dessiner les axes de transports en commun puis décider la densité des immeubles autour de ces axes. C’est une façon très naïve de concevoir la ville. Le premier urbaniste a s’être confronté à ce mode de mise en œuvre est le directeur de la ville de Madrid, au début du XXème siècle. Il a terminé sa carrière en concluant qu’il était impossible, en démocratie, dans une économie de marché d’appliquer de tels préceptes. En effet, dévoiler son plan d’action en matière d’urbanisation pousse les investisseurs à la spéculation. Les terrains 38 autour des axes de transports deviennent alors tellement coûteux qu’il n’est plus possible de mettre en œuvre le projet initial. L’urbanisation n’est plus maîtrisée. Cet exemple montre qu’en Occident, il existe aussi des idéologies complètement déconnectées de la réalité. C’est la raison pour laquelle, à cette époque, tous les grands urbanistes ont critiqué l’économie de marché et ont placé leurs espoirs dans le système communiste. Le seul exemple d’urbanisation qui s’est exclusivement structuré autour d’axes de transports en commun (entre 1920 et 1930) se situe a été réalisé vers 1930 en Russie, à Volgograd. Il s’agit du seul pays ayant réussi à réaliser une ville fonctionnant sur le modèle d’un urbaniste madrilène du XIXème autour d’une ligne de tramway. En effet, la ville de Volgograd a adopté un système totalement communiste dans lequel il n’y a pas de spéculation possible. La Russie est le seul pays à avoir pendant quelque temps réussi à mettre en cohérence l’urbanisme avec les transports, parce qu'aux plus grandes heures de gloire du communisme, elle avait réussi à supprimer la spéculation foncière et à contrôler le logement, y compris le peuplement. En matière d’urbanisme, dans les systèmes démocratiques d’économie de marché, il émerge ainsi un paradoxe qui vient à l’encontre de ce qui peut être raconté et qui dans les faits veut que la seule façon de mettre en œuvre l’urbanisme soit une façon chaotique, sans stratégie globale apparente. Aujourd’hui en urbanisme, et en Occident en particulier, cohabitent 2 modèles politiques complémentaires : - le modèle traditionnel de la planification et collectivisation hérité des pays communistes comme l’URSS qui est intéressant car il permet d’organiser le plan d’urbanisme et de gommer le système de spéculation foncière mais ne maximise pas la création de richesse, - le modèle démocratique et libéral occidental, plus efficace en matière d’investissement et de création de richesse, mais qui génère de la spéculation foncière et du chaos dans les projets. 39 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ Không có mô hình lý tưởng, mỗi quốc gia tự tìm cho mình một mô hình phù hợp, nằm giữa hai thái cực nói trên. Pháp được thế giới biết đến như một nước đi theo con đường dung hòa. Nhận xét và trao đổi Học viên: TPHCM có mật độ cao hơn các thành phố ở Châu Âu, có nhiều xe gắn máy hơn và do đó ùn tắc giao thông nhiều hơn. Vì vậy cần mở rộng đường giao thông. Ông Castel: Theo các bạn, tại sao ùn tắc giao thông ở Việt Nam nhiều hơn so với ở các nước phương tây? Ùn tắc giao thông ở Việt Nam không phải vì hệ thống đường không đủ rộng, mà một phần là vì lương ở Việt Nam thấp hơn ở phương Tây. Nếu mức lương tăng lên, thì ùn tắc giao thông sẽ giảm. Thật vậy, người ta càng giàu, thì giá trị của thời gian càng cao. Nếu người lao động được trả lương cao, thì người sử dụng lao động không thể chấp nhận việc nhân viên của mình dành nhiều thời gian cho việc đi lại. Nếu khu vực trung tâm thành phố bị ùn tắc, thì doanh nghiệp sẽ dời văn phòng ra khỏi trung tâm để tránh ùn tắc. Trên thế giới, thành phố nào càng giàu thì càng ít xảy ra ùn tắc giao thông vì chính quyền đã ban hành các giải pháp cần thiết để không làm mất thời gian của người giàu. Giải pháp này không nhất thiết là phải mở rộng đường giao thông. Ví dụ: thành phố Luân Đôn đã tiến hành thu phí với giá cao đối với xe vào khu trung tâm. Ở TPHCM, người giàu có thể thuê tài xế riêng vì lương tài xế rất thấp. Do đó, anh ta có thể chuyên tâm lo công việc của mình và cho tài xế đậu xe chờ. 40 Ở Châu Âu, lương của tài xế rất cao. Người giàu không thể chấp nhận mất thời gian vì bị kẹt xe và cũng không chấp nhận mất thời gian để tìm chỗ đậu xe. Học viên: Đồng ý với giải thích của Ông Castel về mối liên hệ nhân quả giữa thu nhập thấp và tình trạng ùn tắc giao thông. Tuy nhiên, dường như quy hoạch cũng đóng vai trò quan trọng trong việc ùn tắc giao thông ở thành phố. Các hoạt động thương mại tại mặt tiền của các nhà phố hai bên đường góp phần gây ùn tắc giao thông. Vậy có nên giữ lại loại nhà phố này hay không, dù rằng nó là một đặc trưng của thành phố? Ông Castel: Hiện tượng buôn bán lấn chiếm vỉa hè, không gian công cộng xảy ra ở khắp nơi trên thế giới. Giải pháp cho vấn đề này là phải đánh thuế đối với các hộ kinh doanh để họ không lấn chiếm không gian công cộng. Nhưng trước hết cần phải xây dựng ý thức trong cộng đồng về việc sử dụng không gian công cộng, không phải ai cũng được sử dụng thoải mái không gian công cộng. Việc xây dựng nhận thức này đã diễn ra ở Pháp vào thế kỷ XVIII và XIX. Đó là một quá trình lâu dài và khó khăn. Nhà nước phải sử dụng đến các biện pháp mạnh để kiểm soát các không gian này. Đối với công trình xây dựng, cần gìn giữ các tòa nhà có thể cải tạo và phát huy được giá trị. Ở Việt Nam, đó là kiểu nhà phố, nơi các nhà đầu tư nhỏ sẵn sàng bỏ vốn ra để đầu tư. Ngược lại, đối với các chung cư đang gặp khó khăn về quản lý, thì nguy cơ xuống cấp và giảm giá trị cao hơn nhà phố. Ở Pháp, trước kia, chính trị gia và cơ quan quản lý hành chính - kỹ thuật cũng có quan điểm cho rằng việc tăng mật độ giao thông gắn với quy hoạch và bố trí các khu chức năng. Thật ra, quy hoạch không thể giúp điều tiết được giao thông và cũng không có tác động đến hệ số đi lại. ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES Il n’existe donc pas de système idéal, chaque pays tente de trouver un système qui fonctionne entre ces deux extrêmes. La France est connue dans le monde comme un pays d’économie mixte, à savoir un système hybride dans lequel on tente de trouver un moyen de fonctionnement plutôt socialiste (par rapport aux systèmes anglo-saxons). forcément par l’élargissement des voies. Londres par exemple a opté pour un péage urbain à un prix élevé. A HCMV, les gens riches peuvent se permettre d’avoir une voiture avec chauffeur car celui-ci est payé très peu cher. Par conséquent, la personne aisée peut se permettre de perdre du temps dans la circulation et de vaquer à ses occupations pendant que le chauffeur attend. L’exemple de la construction de la ligne D du métro à Lyon le montre. En effet, cette ligne de transport en commun a été financée grâce à l’argent public réuni par l’ensemble des contribuables. Une étude a montré que la réalisation de la ligne D aurait pu être financée par la simple plus-value foncière que les riverains ont effectué grâce à la mise en place de cet axe de transport. Ceci démontre que le système est fondamentalement injuste puisque cette ligne a été financée par l’ensemble des contribuables mais a permis l’enrichissement de quelques uns : ceux qui possédaient des terrains le long de la ligne. En Europe, le salaire d’un chauffeur est trop élevé. Non seulement, même les personnes aisées ne peuvent pas se permettre de passer du temps dans les bouchons, mais elles ne peuvent pas non plus se permettre de perdre du temps à trouver une place pour se garer. Le problème des pays qui fonctionnent avec le système de propriété privée est donc de savoir comment faire contribuer plus particulièrement les propriétaires de terrains qui se sont enrichis grâce à l’investissement d’argent public à travers les équipements publics. Remarques et échanges Un participant explique que selon lui, HCMV est une ville plus dense que les villes européennes, accueillant plus de mobylettes et que par conséquent il y a plus d’encombrement, ce qui nécessite donc d’entreprendre plus d’élargissements de voirie. M. Castel pose alors une question à l’assistance : Pourquoi, selon vous, y a-t-il plus d’embouteillages au Vietnam que dans les pays occidentaux ? Ce n’est pas parce que les voiries ne sont pas assez larges; la cause des bouchons est liée au fait que les salaires sont plus faibles. Le jour où les salaires augmenteront, les embouteillages diminueront. En effet, plus les gens sont riches, plus le temps perdu dans les transports coûte cher. Lorsque les salaires sont plus élevés, les entreprises ne peuvent pas accepter que leurs salariés perdent du temps dans le transport. Si le centre est congestionné, les entreprises iront s’installer d’elles-mêmes ailleurs, en périphérie pour éviter l’engorgement du centre ville. Plus les villes sont riches dans le monde, moins elles sont encombrées, car plus les autorités prennent les mesures nécessaires pour ne pas faire perdre un temps précieux aux riches. Cela ne passe pas Un participant exprime son accord avec l’explication de M. Castel qui vient d’expliquer le lien de cause à effet entre le le niveau de revenus et l’encombrement des villes. Toutefois, selon lui, il semble que la planification de l’urbanisme joue un rôle important dans la congestion de la ville. Ainsi les activités commerciales disposées dans les compartiments chinois contribueraient également aux embouteillages. Faut-il conserver cette forme urbaine de compartiments chinois, qui fait, par ailleurs, partie de l’identité de la ville ? M. Castel répond que le phénomène que l’on constate à HCMV, des petits commerces qui envahissent l’espace public, se retrouve partout dans le monde. La solution serait de taxer ces petits commerces pour ne pas qu’ils empiètent sur l’espace public. Auparavant en France, certaines communes disposaient d’un service de police spécial chargé de réguler l’occupation des trottoirs par les commerces et les prostituées. Mais il faut qu’il y ait préalablement une prise de conscience que l’espace public ne peut pas être occupé librement par n’importe qui. Cette prise de conscience a eu lieu en France au 18e et 19e siècle. Ce fut un processus lent et douloureux, pendant lequel l’Etat a exercé un contrôle de police autoritaire sur l’espace public. En ce qui concerne les bâtiments, il est très important de conserver les immeubles qui peuvent s’entretenir et se valoriser par eux-mêmes. C’est le cas des compartiments chinois au Vietnam, dans lesquels les petits investisseurs sont prêts à placer de l’argent. En revanche, dans les immeubles collectifs la copropriété étant délicate à gérer, les risques de dégradation et de non-valorisation sont plus grands qu’avec les compartiments chinois. 41 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ Quy hoạch chỉ giúp định hướng phát triển loại hình giao thông (giao thông công cộng hoặc giao thông cá nhân). Hiện nay, nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng các yếu tố liên quan nhiều đến hệ số đi lại là: - Trình độ học vấn - Mức lương Thật vậy, người có trình độ học vấn càng cao, thì thu nhập càng cao và di chuyển càng nhiều. Ví dụ: công nhân chỉ di chuyển 2 hoặc 3 lần một ngày (từ nhà đi làm, từ chỗ làm về nhà, đi mua hàng), trong khi đó, một người giám đốc hoặc giảng viên có thể có đến 10 cuộc hẹn mỗi ngày (đến trường đại học, gặp đối tác, tập luyện thể dục thể thao, tham gia các hoạt động văn hóa…). Do đó, ta thấy hệ số đi lại không liên hệ trực tiếp với quy hoạch. Ở phương tây, việc không có ùn tắc giao thông hoặc có ùn tắc nhưng rất ít không có liên quan đến chất lượng quy hoạch, mà liên quan đến thu nhập (yếu tố quyết định giá trị thời gian đối với mỗi cá nhân). Đất nước càng giàu, thì thời gian càng có giá trị lớn và do đó thời gian dành cho đi lại phải càng ít. Do vậy, cần tổ chức đô thị sao cho thời gian dành cho giao thông càng ít càng tốt. Điều này chủ yếu được thực hiện bằng quy định về giao thông và đậu xe. Quốc gia nào càng giàu, thì nền kinh tế của quốc gia đó càng đi theo hướng phát triển dịch vụ. Các quốc gia nghèo hơn, thì nền kinh tế thường được gọi là kinh tế "nông nghiệp" hoặc "công nghiệp". Và người dân trong nền kinh tế công nghiệp hoặc nông nghiệp ít di chuyển hơn so với người dân trong nền kinh tế dịch vụ, vốn là nền kinh tế của các mối quan hệ. Về mối quan hệ giữa khoảng cách từ nơi ở đến nơi làm việc và mức độ phát triển kinh tế, người ta nhận thấy ở tất cả các nước, khoảng cách này không ngừng tăng lên từ 30 năm nay và sẽ tiếp tục tăng trong tương lai. 42 Học viên: một nghiên cứu ở TPHCM cho thấy, hệ số đi lại của người có trình độ học vấn thấp cao hơn người có trình độ cao vì người có trình độ cao có thể sử dụng các phương tiện kỹ thuật để liên lạc hoặc đặt hàng mà không cần phải di chuyển. Ông Castel: Tất cả các nghiên cứu trên thế giới đều cho thấy người giàu di chuyển nhiều nhất. Từ khi bạn có điện thoại, bạn có di chuyển ít hơn không? Câu trả lời là không vì cứ hai cuộc gọi, thì có một cuộc gọi là để xác định cuộc hẹn gặp. Các loại phương tiện thông tin liên lạc, dù phát triển đến mấy, cũng không thể thay thế được việc gặp gỡ trực tiếp giữa người với người. Ngược lại, chúng còn làm phát sinh nhu cầu đi lại để gặp gỡ. Hỏi: Theo ông, dọc theo các trục đường đang nghiên cứu, có thể phát triển loại công trình xây dựng nào? Ông Castel: Để trả lời câu hỏi này, cần nhớ rằng 99% đô thị của ngày hôm nay sẽ là đô thị của ngày mai. Thật vậy, quy hoạch đô thị có rất ít khả năng làm thay đổi đô thị. Tỉ lệ thay đổi của đô thị là rất thấp và quá trình thay đổi rất chậm (ở Pháp, mỗi năm, chỉ có 1% đô thị thay đổi). Việc so sánh giữa tổng số nhà ở hiện hữu với tổng số nhà ở xây dựng mới mỗi năm sẽ cho thấy tốc độ và tỉ lệ thay đổi của đô thị. Quá trình thay đổi của đô thị cần thời gian dài hơn tỉ lệ thay đổi về chính sách và tốc độ tăng trưởng kinh tế. Yếu tố có tác động mạnh và nhanh đến đô thị trong tương lai sẽ là tốc độ tăng trưởng kinh tế lớn hơn nhiều so với tốc độ tổ chức, quy hoạch và giao thông đô thị. ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES En France, à une certaine époque, les politiques et l’administration technique tenaient le même résonnement quant à l’augmentation de la circulation liée à la planification et à l’implantation de zones fonctionnelles ou multifonctionnelles. La planification urbaine ne permet pas de réguler les déplacements et n’a pas d’impact sur la quantité des déplacements. La planification permet seulement d’orienter le développement de tel ou tel type de déplacements (favorisant l’essor des transports en commun plutôt que celui des transports individuels, ou inversement). Aujourd’hui preuve est faite que les facteurs corrélés aux déplacements sont : - Le niveau d’étude, - Le niveau de salaire. En effet, plus les personnes ont fait de longues études, plus ils possèdent des revenus élevés, et plus ils consomment et génèrent des déplacements. L’exemple de l’ouvrier qui fait seulement 2 ou 3 déplacements dans la journée (il va à son travail et rentre le soir en passant éventuellement par un petit commerce) et du directeur ou professeur qui a 10 rendez-vous dans la journée (rendez-vous à l’université, plusieurs rendez-vous d’affaires, puis le soir activités sportives ou culturelles…) le montre bien. On constate donc que la quantité de déplacements n’est pas directement liée à la planification. En Occident, le fait qu’il n’y ait pas de bouchons n’est pas lié à la qualité de la planification. L’absence ou le peu d’encombrement est lié au niveau de richesse qui détermine la valeur du temps de chaque individu . Plus les pays sont riches, plus le temps des personnes passé dans les transports coûte cher et plus il doit être court. Dès lors, les politiques – et donc les villes – se réorganisent afin que le temps passé dans les transports soit le plus court possible, essentiellement en modulant les règles de police de la circulation et du stationnement.. Plus les pays sont riches, plus ils ont une économie dite « de services ». Dans les pays moins riches, l’économie est dite « agricole » ou « industrielle ». Or, l’économie industrielle ou agricole nécessite moins de déplacements que l’économie de services, qui est une « économie de relations » dans laquelle il y a énormément d’échanges. Un indicateur mesure la corrélation entre la distance du lieu de résidence au lieu de travail et le niveau de développement économique. On constate que dans tous les pays occidentaux, cet indicateur n’arrête pas d’augmenter. Autrement dit, la distance domicile-travail s’accroit depuis les 30 dernières années et continuera à s’accroître car elle est liée à l’augmentation de la richesse, quelle que soit la qualité de la planification. Un participant intervient en disant qu’une étude montre que le taux de déplacement des personnes au niveau d’étude bas est plus fort à HCMV. Les personnes plus aisées se déplacent moins car elles disposent de moyens technologiques qui leur permettent de communiquer et de commander à distance. M. Castel rétorque que toutes les études dans le monde démontrent que ce sont les personnes les plus riches qui se déplacent le plus. Depuis que vous avez un téléphone, est-ce que vous vous déplacez moins ? La réponse est non, car une fois sur deux quand vous téléphonez c’est pour fixer un rendez-vous. Les moyens de télécommunication, aussi développés soient-il, ne remplacent pas le contact humain et au contraire engendrent des déplacements pour aller à la rencontre de l’autre. Un participant souhaite revenir à une question de design urbain. Selon vous quel est le type de bâtiments qui vont être développés le long des axes étudiés ? M. Castel dit que pour répondre à cette question, il ne faut pas perdre de vu que 99 % de la ville d’aujourd’hui sera la ville de demain. En effet, la capacité de la planification de l’urbanisme à changer la ville est minime. Le taux de renouvellement de la ville est très faible (en France 1% de renouvellement par an) et surtout très lent : la comparaison entre le nombre de logements existants et le nombre de logements construits par an permet de connaître la vitesse du taux de renouvellement de la ville. Ce taux de renouvellement a une durée plus longue que le renouvellement des politiques et que la croissance économique. Ce qui modifiera et aura un impact beaucoup plus fort et rapide sur la ville dans les années à venir sera essentiellement la croissance économique qui va beaucoup plus vite que l’organisation des nouvelles politiques et des différentes planifications urbaines et contraint de manière beaucoup plus forte l’organisation des déplacements notamment. 43 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ II. Chính quyền có những cách thức nào để tạo quỹ đất? 1. Mua đất qua thương lượng Khi chính quyền xác định sẽ thực hiện một dự án tại một khu vực nào đó trên địa bàn của mình (ví dụ: dự án cải tạo một khu phố, dự án công ích), thì chính quyền sẽ tổ chức việc mua đất ở khu vực đó trước khi triển khai dự án. Chính quyền có 3 cách để mua đất: - Mua đất qua thương lượng với các chủ sở hữu: đây là cách được sử dụng nhiều nhất và ưu tiên nhất. - Mua đất bằng cách thực hiện quyền ưu tiên mua: đất mua được bằng cách này chiếm khoảng 1% tổng quỹ đất cho dự án - Mua đất bằng cách thực hiện quyền trưng mua: đất mua được bằng cách này chiếm khoảng dưới 1% tổng quỹ đất cho dự án. 2. Mua đất bằng cách thực hiện quyền ưu tiên mua (1%) Quyền ưu tiên mua đất đô thị cho phép chính quyền thành phố được ưu tiên mua đất và bất động sản rao bán. Khi chủ sở hữu rao bán lô đất hoặc căn nhà, thì chính quyền phải xác nhận có thực hiện quyền ưu tiên mua hay không trước khi chủ sở hữu ký hợp đồng mua bán với người mua. Nếu chính quyền quyết định mua, thì chủ sở hữu có thể bán theo giá do Cơ quan định giá bất động sản của nhà nước xác định (giá này được xác định dựa trên cơ sở giá giao dịch trên thị trường do Cơ quan thuế thống kê). Điểm bất lợi của cách xác định giá này là nó không cập nhật sát với giá thị trường hiện thời. Nếu người bán không đồng ý với giá do chính quyền đề nghị, thì người bán có thể quyết định không bán nữa. Tuy nhiên, người bán cũng không thể bán cho ai khác được. Nếu chính quyền quyết định không mua, thì người bán được quyền bán bình thường. Nhờ vào quyền ưu tiên mua đất và bất động sản đô thị, nên chính quyền có thể mua được tài sản cần thiết để thực hiện dự án quy hoạch mà không cần dùng đến quyền trưng mua. Tuy nhiên, quyền ưu tiên 44 mua cũng làm phát sinh thêm chi phí đất vì phải mua đất trước khi triển khai thực hiện dự án. Ngoài ra, quyền ưu tiên mua bất động sản và đất đô thị cũng giúp cho chính quyền kiểm soát được thị trường bất động sản trên địa bàn. Chính quyền sẽ biết được tất cả các giao dịch bất động sản trên địa bàn. Với cách làm này, chính quyền có thể mua được hầu hết các khu đất nằm trong phạm vi dự án công ích. Đôi khi, còn lại một vài lô đất mà chính quyền không thể mua được bằng cách này, ví dụ những người lớn tuổi không muốn bán nhà của mình vì có nhiều kỷ niệm, nhiều gắn bó. Khi đó, giải pháp duy nhất là trưng mua. 3. Trưng mua (0,....%) Trưng mua vì mục đích công ích là một công cụ được quy định trong luật ở Pháp cho phép chính quyền bắt buộc một chủ sở hữu phải bán tài sản cho chính quyền mặc dù chủ sở hữu đó không muốn. Trưng mua chỉ hợp pháp khi nó được thực hiện vì lợi ích công. Thủ tục tiến hành trưng mua khá phức tạp vì nó gồm nhiều bước mang tính pháp lý. Điều này giải thích tại sao thủ tục này ít được sử dụng. III. Các chủ thể mua đất 1. Chính quyền mua đất trực tiếp Thành phố có thể tự mua đất. Vốn để mua đất lấy từ: - Thuế, - Vốn vay (phải trả lãi và hoàn vốn). Ngoài ra, khi chính quyền trở thành chủ sở hữu một khu đất, điều đó có nghĩa là chính quyền mất đi phần thuế thu từ khu đất đó. Hơn nữa, việc giữ đất còn có các bất lợi sau: - Nguy cơ đất đó bị chiếm dụng bất hợp pháp hoặc sử dụng sai mục đích, - Tốn chi phí quản lý đất. Việc thành phố trực tiếp mua đất là một giải pháp hiệu quả, nhưng nó cũng có những rủi ro đáng kể và chi phí cao. ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES II. Quels sont les moyens d’acquisition du foncier par la puissance publique ? 1. Achat à l’amiable Lorsqu’un site ou un territoire est identifié par la force publique, l’achat des terrains à l’amiable s’organise dans un délai de 10 à 20 ans avant la mise en place d’un projet urbain. Ainsi, pour préparer le réaménagement d’un quartier ou la mise en œuvre d’un projet d’intérêt public, la collectivité se sert des différents outils à sa disposition pour acheter les terrains : - L’achat de terrain à l’amiable est la procédure majoritairement privilégiée et employée par la collectivité pour acquérir des terrains, - Le droit de préemption représente environ 1% des procédures d’urbanisme en matière d’achat de terrain par la collectivité, - Le droit d’expropriation représente moins d’1% des procédures d’urbanisme cas d’acquisition. 2. Préemption (1%) Le droit de préemption urbaine (DPU) permet à la commune d'acquérir prioritairement un bien foncier ou immobilier lorsque celui-ci est sur le point d'être vendu. Lorsqu'un propriétaire vend un terrain ou une maison à un acheteur, avant que la vente ne soit conclue, la commune doit s'exprimer sur sa volonté d'user de son droit de préemption. Si elle choisit de le faire, le vendeur a le choix de vendre au prix du service des domaines ou de ne pas vendre. L'estimation du service des Domaines se fonde sur des statistiques des prix du marché fait par le ministère des Finances. L’inconvénient de cette base de référence est qu’elle présente deux voire trois ans de retard sur les prix réels du marché en cours. Si le vendeur refuse le prix proposé, il peut décider de renoncer à la vente et de garder son bien. Mais il ne peut pas le vendre à quelqu’un d’autre. Si la mairie décide de ne pas préempter, la vente suit son cours normal. Grâce au droit de préemption urbain, une commune peut ainsi acquérir des biens dont elle a besoin pour mener à bien ses projets d'aménagement, sans avoir recours à l'expropriation, et à son caractère brutal. En revanche, la préemption engendre un coût de portage foncier supplémentaire car le terrain doit être acquis bien avant que le projet soit en phase opérationnelle. Par ailleurs, le droit de préemption urbain permet à la commune d'avoir une bonne connaissance du marché immobilier sur son territoire, ce qui est une raison de l'importance des zones soumises au DPU et au faible nombre de décisions de préemptions. La commune est ainsi informée de tous les projets de vente immobilière. Avec ce système, la grande majorité des terrains situés dans le périmètre d’un projet d’utilité générale peut être achetée par la collectivité. Parfois il reste un tout petit pourcentage de terrain que la collectivité n’arrive pas à acquérir. Dans ces cas, il peut s’agir par exemple de personnes âgées qui ont du mal à se défaire de leur propriété dû à l’attachement familial le plus souvent. La seule solution est alors l’expropriation. 3. Expropriation (0,…%) L'expropriation administrative pour cause d'utilité publique est une disposition du droit français permettant à l’acquéreur (la collectivité publique) de forcer un propriétaire à céder son bien contre son gré. L’expropriation administrative ne peut être légale que si elle est effectuée pour des raisons d'utilité publique. Cette procédure est très complexe car elle est entourée de nombreuses protections juridiques et peut conduire au ré-enclenchement de l’enquête publique, ce qui explique que cette démarche, très lourde, soit peu utilisée. III. Les acteurs qui acquièrent le foncier 1. Acquisition directe par la collectivité La commune peut acquérir des terrains par ellemême. Elle se finance grâce : - Aux recettes des impôts, - Aux emprunts, mais l’empreint a un coût car il faut le rembourser avec les intérêts. Par ailleurs, lorsque la commune devient propriétaire, cela représente autant d’impôts qu’elle ne reçoit plus. De plus, le portage foncier présente d’autres inconvénients : - Le risque d’occupations et/ou d’usages non désirés et/ou illégaux, - Un coût lié à la gestion du terrain. Cette solution d’acquisition directe de terrains par la collectivité est efficace mais représente également une prise de risques non négligeable et un coût élevé. 45 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ 2. Trung tâm tạo quỹ đất: mua đất giúp cho chính quyền địa phương Trung tâm tạo quỹ đất được thành lập theo ý chí của chính quyền các địa phương. Trung tâm có Hội đồng quản trị gồm đại diện của các địa phương. Hội đồng này là cơ quan đề ra chiến lược hoạt động của Trung tâm. Việc thành lập các trung tâm này xuất phát từ ý thức của đại biểu dân cử tại địa phương. Điều này giúp cho hoạt động của trung tâm có tính pháp lý và có độ tin cậy. Thuế xây dựng là nguồn thu dành cho hoạt động của trung tâm tạo quỹ đất. Trung tâm là một công cụ đặc biệt về đất đai và chỉ phục vụ cho chính quyền. Trung tâm gồm nhiều chuyên gia trong nhiều lĩnh vực như đàm phán với ngân hàng về việc vay vốn, dự báo về đất đai, mua và quản lý đất (làm hàng rào, cho thuê tạm thời…). Nhiệm vụ duy nhất của trung tâm là phát triển quỹ đất dựa trên các mục tiêu đã được xác định trước (nhà ở, giao thông, môi trường…), nghĩa là mua đất giúp cho chính quyền để giảm chi phí về đất đai cho chính quyền. Trung tâm mua đất và bất động sản để tạo quỹ đất phục vụ cho các dự án quy hoạch. Trung tâm thay mặt cho chính quyền để thương lượng hoặc có thể nhận ủy thác của chính quyền để thực hiện quyền ưu tiên mua. Sau đó, trung tâm sẽ quản lý quỹ đất trong khoảng thời gian được xác định trước khi giao lại cho chính quyền. Trung tâm không phải là một đơn vị đầu tư và phát triển bất động sản. Nhiệm vụ của trung tâm là mua đất, quản lý đất và giao lại đất cho chính quyền. Trung tâm tạo quỹ đất phục vụ cho các dự án của địa phương, nắm bắt các cơ hội về đất đai mà chính quyền khó có khả năng đảm nhận được. Tuy nhiên, một số địa phương không nhờ đến trung tâm tạo quỹ đất vì trung tâm này cũng có nhiều bất lợi như: - Buộc phải ban hành các loại thuế bổ sung, - Đòi hỏi phải xác định ưu tiên, thứ bậc quan trọng và điều phối các chính sách về các dự án đô thị và đất đai để tránh manh mún khi mua đất. Kinh nghiệm cho thấy lúc đầu việc thành lập trung tâm này thường có nhiều tranh cãi vì mỗi địa phương thường muốn tạo lập quỹ đất trên địa bàn của mình. Trong khi đó, phải cần từ 10 đến 20 năm để hình thành các chiến lược về đất đai. Nhận xét và trao đổi Hỏi: Chính quyền có buộc phải nói tại sao mua đất hoặc mua đất vì dự án nào không? Đáp: Nếu chính quyền mua đất qua thương lượng, thì không bị bắt buộc phải nói ý định của mình. Ngược lại, nếu chính quyền mua đất bằng biện pháp trưng mua hoặc thực hiện quyền ưu tiên mua, thì chính quyền buộc phải nói mục tiêu mua đất để làm gì. Một học viên làm việc ở Trung tâm tạo quỹ đất tại TPHCM cho biết theo quy định, khi trung tâm bán đất, thì trung tâm được giữ lại 50% để phục vụ cho phát triển. Công tác điều phối giữa các địa phương giúp dự báo việc thực hiện các dự án được tốt hơn. Làm thế nào điều phối hoạt động giữa các sở, ban ngành và trung tâm tạo quỹ đất? Đáp: Trung tâm tạo quỹ đất chỉ là công cụ để tạo quỹ đất. Trung tâm không phải là cơ quan quyết định việc thực hiện các dự án. Chiến lược thực hiện các dự án thuộc thẩm quyền của chính quyền địa phương và các nhà lãnh đạo chính trị. 3. Đơn vị tư nhân mua đất - trường hợp công ty phát triển hạ tầng Đơn vị tư nhân cũng có thể tham gia vào lĩnh vực đất đai. Chúng ta hãy tìm hiểu trường hợp một đơn vị tư nhân chuyên về phát triển hạ tầng và quy hoạch quan tâm đến một khu đất cần quy hoạch. Tại khu đất đó, chính quyền quy định các chỉ tiêu quy hoạch với mật độ xây dựng thấp. ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES 2. Acquisition par un fonds et une structure spéciale qui achètent le foncier pour le compte de l’autorité L'Etablissement Public Foncier Local, EPFL, se fonde sur la volonté et l’engagement responsable des collectivités, qui doivent être directement sont à l’origine de sa création. Ce sont elles qui dirigent stratégiquement l’activité de l’établissement une fois celui-ci créé, via notamment un Conseil d’Administration composé de représentants des collectivités membres. La mise en place de l’outil provient ainsi d’une véritable prise de conscience des élus locaux, ce qui contribue à légitimer et à crédibiliser son action sur le territoire. Une taxe sur les constructions sert à alimenter un fonds régional spécifique dédié au fonctionnement de l’établissement. Cette structure constitue un outil spécialisé en matière de foncier au service exclusif de la collectivité. Elle regroupe des experts dont le métier est de négocier des emprunts avec les banques, faire de la prospective foncière, acquérir et gérer les terrains (clôtures, locations temporaires des lieux par des entreprises…). Sa vocation exclusive est le développement d’une maîtrise foncière axée sur des objectifs prédéfinis (habitat, déplacements, environnement...), c’est-à-dire l’achat de terrains pour le compte des collectivités en leur évitant les coûts de portage. Dès lors, l’EPFL engage des acquisitions foncières ou immobilières, en vue de la constitution de réserves foncières, ou de la réalisation d’opérations d’aménagement. L’EPFL se substitue à la collectivité par le biais de la négociation ou même par délégation en matière de droit de préemption et d’expropriation. Il porte ensuite les biens acquis pendant une durée prédéterminée avant de les rétrocéder à la collectivité qui en a demandé l’acquisition. L’EPFL n’est donc ni un aménageur ni un promoteur : il achète, porte, gère et remet éventuellement en état le foncier pour le compte de la collectivité. Un EPFL sert donc à mobiliser du foncier au service des projets des collectivités territoriales, et à concrétiser les opportunités foncières que la collectivité, seule, aurait eu des difficultés à assumer. Toutefois, certaines collectivités font le choix de ne pas faire appel à un EPFL. En effet, cette structure 46 présente plusieurs inconvénients comme : - L’obligation de mettre en place des taxes supplémentaires, - L’exigence de prioriser, hiérarchiser et coordonner les politiques en matière de projets urbains et donc en matière d’acquisition foncière pour éviter l’émiettement de l’achat du foncier. L’expérience montre qu’au démarrage, l’instauration d’une telle structure est souvent controversée car chaque commune souhaite, si elle paie, voir la réserve foncière se mettre en action sur son territoire. Or, il faut 10 à 20 ans pour que les stratégies foncières mûrissent et émergent. Remarques et échanges Un participant demande si la collectivité est obligée de dire pourquoi, pour quel projet, elle achète des terrains ? M. Castel explique que si la collectivité achète des terrains à l’amiable elle n’est pas obligée de communiquer sur ses intentions. En revanche, si elle exproprie ou préempte, elle est obligée de dire dans quel objectif elle le fait. Un participant intervient pour dire qu’il travaille dans une structure similaire aux EPFL à HCMV. Un règlement dit que quand la structure revend un terrain, la structure doit conserver 50% du montant pour son développement. Effectivement, un travail coordonné avec la commune permet de mieux anticiper la réalisation des projets. Comment coordonner les actions entre les services techniques et la structure ? M. Castel répond qu’en France, les EPFL ne sont que de simples outils servant à créer de la réserve foncière. Ce ne sont pas les établissements qui décident des projets et des terrains à cibler, la stratégie est du ressort des collectivités et de la décision politique. 3. Portage foncier par les opérateurs privés cas de l’aménageur privé Le foncier peut également être porté par des opérateurs privés. Etudions le cas d’un aménageur privé qui s’intéresserait à un site en friche sur lequel la collectivité aurait imposé un règlement d’urbanisme à la constructibilité faible c’est-à-dire avec une faible densité. 47 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ Trường hợp 1: công ty này xây dựng được dự án và mua được toàn bộ khu đất này. Khi đó, công ty này có thể phân lô, rồi bán lại các lô đất đó cho các nhà đầu tư thứ cấp, sau khi đã xây dựng đầy đủ cơ sở hạ tầng. Công ty này phải tuân thủ bộ điều kiện sách của chính quyền, trong đó xác định rõ đặc điểm của công trình cơ sở hạ tầng cần xây dựng. Nếu vào thời điểm đó, quy hoạch xây dựng được điều chỉnh, thì nhà đầu tư có thể tận dụng cơ hội này để thương lượng với chính quyền về việc tăng chất lượng thiết kế dự án và đổi lại chính quyền sẽ cho phép nhà đầu tư tăng mật độ xây dựng. Nếu nhà đầu tư khi lập dự toán, thấy có đủ lợi nhuận mong muốn, thì nhà đầu tư sẽ tiến hành thực hiện dự án và xây dựng cơ sở hạ tầng theo điều kiện sách của chính quyền. Cơ sở hạ tầng, công trình công cộng, không gian công cộng sau khi được xây dựng xong, nhà đầu tư sẽ bàn giao cho chính quyền và trở thành tài sản công. Nếu khu quy hoạch có diện tích nhỏ, thì không cần khảo sát ý kiến người dân. Nhưng nếu nó vượt qua một mức diện tích nhất định, thì phải thực hiện khảo sát ý kiến người dân. Trong trường hợp này, chính quyền chỉ có quyền ban hành quy định. Đôi khi, chính quyền có được một vài khu đất bỏ hoang trong khu vực này. Khi đó, chính quyền có thêm tiếng nói trong cuộc đàm phán với nhà đầu tư. Trường hợp 2: dự án lỗ vì trong bộ điều kiện sách chính quyền yêu cầu quá cao, quá ngặt nghèo và yêu cầu nhiều ở nhà đầu tư. Premier cas de figure : l’aménageur privé parvient à monter une opération bénéficiaire en ayant acheté tous les terrains. Trong trường hợp này, nhà đầu tư cũng có thể chấp nhận điều kiện sách của chính quyền nếu chính quyền bù lỗ cho họ. Khi đó, trước khi giải ngân tiền từ ngân sách, chính quyền phải tiến hành khảo sát ý kiến của người dân, hội đoàn về dự án để xác lập Khu vực quy hoạch có sự thỏa thuận (ZAC). Tương tự, nếu chính quyền muốn trưng mua tài sản của người dân trong khu quy hoạch, thì phải tiến hành trưng cầu dân ý. Để bù lỗ cho nhà đầu tư trong các dự án quy hoạch, các chính trị gia có xu hướng cân đối kinh phí của dự án khu quy hoạch bằng cách tăng chỉ tiêu quy hoạch. Nhưng phải đảm bảo mức tăng phù hợp với nhu cầu của thị trường. Nếu không, khi thị trường bất động sản đi xuống, thì có thể thiệt hại lớn và khi đó chính quyền có thể từ chối đầu tư cho dự án. L’investisseur peut redécouper le foncier en lots et revendre les lots une fois qu’ils sont équipés. Il doit respecter le cahier des charges de la collectivité définissant les caractéristiques des équipements à réaliser. Lors de la modification du PLU, si le PLU est mis en révision à ce moment là, l’investisseur peut en profiter pour engager une négociation avec la commune afin d’enrichir la conception du projet, en échange, le cas échéant, de l'augmentation des droits à construire. Dans ce cas, très souvent l’accord est conclu à la condition que l’investisseur suive le cahier des charges de la collectivité et qu’il finance en particulier les aménagements publics. Les acteurs se mettent ainsi d’accord sur un programme d’aménagement. Si l’investisseur réussit à faire établir un bilan prévisionnel avec une marge de bénéfice qu’il estime suffisante, il engage la construction et l’aménagement du site selon le cahier des charges de la collectivité. Les espaces publics une fois réalisés seront rétrocédés par l’investisseur à la ville pour entrer dans le domaine public. Nhận xét và trao đổi Hỏi: Về chiến lược của nhà đầu tư, nhà đầu tư mua đất trước khi có quy hoạch hay sau khi có quy hoạch? Đáp: Thông thường, nhà đầu tư mua đất trong các khu vực được phép xây dựng hoặc các khu vực được xác định là sẽ đô thị hóa trong tương lai theo quy hoạch. Trên thực tế, đôi khi ở một khu vực nào đó giá đất nông nghiệp và tự nhiên tăng cao, điều này chứng tỏ nhà đầu tư đang đầu cơ về việc khu vực này có thể được thay đổi quy hoạch. Khu vực nông nghiệp Si l’aménagement est de petite taille, il n’est pas nécessaire de consulter le population à travers une enquête publique, mais au-delà d’un certain seuil, cette consultation devient obligatoire. Ici, le pouvoir de la collectivité réside dans le seul règlement. Parfois, la collectivité réussit à acquérir quelques terrains sur ce même site en friche lui permettant d’avoir plus de poids dans la négociation. Deuxième cas de figure : l’opération est déficitaire car la collectivité impose un cahier des charges trop strict et trop important, et exige beaucoup de concession de la part de l’investisseur. Zone agricole Khu vực sẽ đô thị hóa Zone à urbaniser Khu vực đã đô thị hóa Zone urbanisée 48 ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES Dans ce cas, l’investisseur peut tout de même accepter le cahier des charges de la collectivité si celle-ci compense le déficit dans le bilan de l’aménageur. Ici, avant d’engager le déblocage de fonds publics il faut procéde à l’ouverture d’une enquête publique afin de créer une Zone d’Aménagement Concerté (ZAC). De la même manière, si l’autorité publique envisage des expropriations sur le site du projet, l’enquête publique est obligatoire. Afin de compenser le déficit des investisseurs privés dans les opérations d’aménagement, les politiques peuvent rééquilibrer le bilan en apparence en modifiant le projet de ZAC pour accorder des augmentations de droits à construire. Mais il faut s’assurer que cette augmentation n’est pas une illusion et qu’elle reste en phase avec la demande du marché. Sinon, en cas de chute du prix de l’immobilier, cela mène parfois à de gros déficit, et la collectivité peut se retrouver à financer, à perte, des opérations d’aménagement. Lorsque la collectivité en association avec les investisseurs privés enclenchent de telles opérations d’aménagement, elle associe le plus d’experts privés possible afin d’ajuster au mieux le bilan de l’opération. Suite à une mauvaise expérience à Lyon, il a été mis en place des mécanismes spécifiques afin de limiter l’impact du marché du foncier sur ce type d’opérations. En parallèle, la taille des opérations mises en œuvre a été diminuée. Remarques et échanges Un participant souhaiterait connaître la stratégie adoptée par les investisseurs : achètent-ils le terrain avant d’avoir décidé d’une planification ou après ? M. Castel explique que souvent les investisseurs achètent dans les zones signalées par le PLU à la fois comme« non constructible » et à la fois comme « zone d’urbanisation future ». En effet, cette stratégie d’acquisition permet d’acheter des terrains peu cher puisque plus on s’approche de la zone urbanisée, plus le terrain est cher car plus le temps d’urbanisation est proche. Normalement, les investisseurs ne devraient acheter du foncier que dans les zones déjà constructibles ou celles identifiées pour les urbanisations futures dans les documents de planification urbaine. En réalité, on constate parfois des prix très élevés dans les zones naturelles ou agricoles non constructibles, ce qui prouvent que des investisseurs spéculent sur le fait que le classement de ces zones pourra changer. 49 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ Một học viên cho biết những gì Ông Castel vừa trình bày rất giống với tình hình ở TPHCM. Ví dụ này thường xảy ra trong nền kinh tế thị trường, nhưng 3 nguy cơ nói trên giúp hạn chế lạm dụng. Ông Castel: Việt Nam đã bước vào nền kinh tế thị trường. Ở Pháp, chính quyền địa phương cập nhật bản đồ quy hoạch trung bình 4 tháng một lần để nắm bắt cơ hội và điều chỉnh dự án đang thực hiện. Quyền kiểm soát và áp lực của chính quyền nằm ở chỗ chính quyền áp đặt quy chế quy hoạch. Các đại biểu dân cử đứng giữa hai bên: một bên là nhà đầu tư (gây áp lực mạnh) và bên kia là người dân (nắm quyền bỏ phiếu). Điều này giúp các đại biểu dân cử cân bằng lợi ích giữa hai bên. IV. Đóng góp tài chính Một học viên muốn biết thêm về vai trò của người dân: khảo sát ý kiến người dân có bắt buộc không? Cách này không nhằm để mua đất mà là đánh thuế đối với chủ sở hữu các khu đất dọc theo tuyến đường. Có thể áp dụng cách này đối với chủ sở hữu lô đất dọc theo tất các tuyến đường để mang lại một nguồn thu lớn. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện phương pháp này cũng gặp nhiều khó khăn vì nhiều lý do: Ông Castel: Thủ tục lấy ý kiến diễn ra theo nhiều tiêu chí khác nhau, tùy theo quy mô của dự án. Nếu dự án có quy mô nhỏ, thì phương thức lấy ý kiến khá thoáng. Nếu dự án có quy mô lớn, hoặc cần phải tiến hành trưng mua đối với nhiều chủ sở hữu, thì một người độc lập do tòa án hành chính bổ nhiệm sẽ tiến hành điều tra, khảo sát ý kiến. Người này sẽ ghi lại ý kiến của mọi người dân và sẽ trình bày trong một báo cáo công khai. Một học viên cho rằng có sự mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và quy hoạch Trao đổi về ý kiến này, Ông Castel trình bày một ví dụ cụ thể: có một nhà đầu tư mong muốn xây một chung cư 15 tầng, trong khi theo quy hoạch, ông ấy chỉ được xây 5 tầng. Nếu các vị đại biểu dân cử đồng ý điều chỉnh quy hoạch theo đề nghị của nhà đầu tư, thì nhà đầu tư và các vị đại biểu dân cử sẽ chịu 3 rủi ro: 1. Rủi ro về tài chính: nếu thị trường bất động sản đi xuống, nhà đầu tư sẽ lỗ. 2. Rủi ro về chính trị: việc xây dựng một chung cư như thế có thể làm cho những người ở xung quanh khu vực đó không hài lòng. Điều này sẽ làm giảm khả năng tái đắc cử của các vị đại biểu. 3. Rủi ro về pháp lý: dự án không phù hợp với quy hoạch. Do đó nếu có một người dân kiện, thì tòa án có thể hủy dự án. 50 Mua toàn bộ khu đất là cách hiệu quả và chắc chắn nhất để thành phố kiểm soát toàn diện khu vực có dự án quy hoạch. Bất lợi lớn nhất của cách làm này là chi phí quá cao. Một số giải pháp khác, ít tốn kém hơn có thể được tính đến 1. Đóng góp của chủ sở hữu được tính trên giá trị gia tăng của đất - Khó khăn về chính sách: người dân không thích đóng thuế, đặc biệt là các chủ sở hữu, những người có ảnh hưởng nhiều nhất đối với chủ trương, chính sách. - Khó khăn về thuế: Để đảm bảo tính công bằng trong thuế đất, cần phải biết giá trị thật của các khu đất. Để làm được điều này, một mặt phải có nền kinh tế thị trường tự do và mặt khác các giao dịch đất đai và bất động sản phải minh bạch để ta có thể biết được giá thật trên thị trường mỗi năm. Ở Việt Nam chưa làm được điều này: giá thị trường trong các giao dịch về đất đai khác với bảng giá chính thức. Ở Pháp cũng thế. Thật vậy, mặc dù các bộ có số liệu thống kê về giá đất, nhưng dữ liệu này rất khó tiếp cận và không được cập nhật kịp thời. Thuế cũng không phù hợp với thực tế của thị trường. Mỹ là quốc gia duy nhất trên thế giới có hệ thống đánh thuế thực sự theo giá thị trường và giúp nhà nước thu hồi giá trị gia tăng của đất một cách công bằng nhất. Nhờ đó, đối với nhiều tuyến Metro ở Thành phố New York, nhà nước đã thu hồi được toàn bộ vốn đầu tư bằng cách đánh thuế giá trị gia tăng từ đất và bất động sản hai bên đường. Có hai ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES Un participant commente la réponse de M. Castel en disant que le phénomène décrit correspond tout à fait à la situation à HCMV. Ce genre de situation se retrouve régulièrement dans une économie de marché, mais ces 3 risques permettent d’encadrer les dérives. M. Castel réagit et explique qu’en effet, le Vietnam est déjà passé dans une économie de marché. En France, les grandes collectivités remettent à jours leur PLU tous les quatre mois en moyenne pour suivre les projets des investisseurs, saisir les opportunités et modifier les projets en cours. Le pouvoir de contrôle et de pression que possède la force publique réside essentiellement dans l’imposition des règlements. L’élu se retrouve tiraillé entre l’investisseur (qui le soumet à de fortes pressions) et les citoyens (qui détiennent le pouvoir d’élire), ce qui permet ainsi d’équilibrer l’intérêt des uns et des autres. IV. Les participations financières Un participant souhaiterait avoir plus de précision sur le rôle des citoyens : l’enquête publique est-elle obligatoire ? M. Castel explique que les procédures de concertation se déroulent en fonction de différents critères et en particulier en fonction de la taille du projet. Si le projet est de petite taille, les modalités de mise en place de la concertation sont libres. Si l’opération est de grande ampleur, ou qu’elle nécessite une ou plusieurs expropriations, un commissaire enquêteur indépendant du pouvoir politique est désigné par le président du tribunal administratif pour conduire l’enquête publique. Il enregistre les doléances des citoyens et les retranscrit publiquement. Un participant estime qu’il y a une contradiction entre l’économie de marché et la planification. Pour y répondre M. Castel expose un exemple concret : imaginons qu’un investisseur souhaite construire un immeuble de 15 étages alors que le PLU ne lui autorise que 5 étages. Si l’élu accepte de se prononcer en faveur de l’investisseur en validant une modification, de la zone concernée sur le PLU, il prend alors 3 risques : 1. Un risque financier : si le marché de l’immobilier se renverse il devient déficitaire. 2. Un risque politique : l’implantation d’un tel immeuble peut être très mal acceptée par la population riveraine. Ce mécontentement affaiblira ses chances de réélection. 3. Un risque juridique : le projet n’est pas compatible avec le schéma directeur et pourrait être annulé par un tribunal si un citoyen en fait la demande. Acheter des terrains de façon large est le moyen le plus efficace et le plus sûr pour la ville de maîtriser l'aménagement de l'ensemble d'un site. L’inconvénient majeur réside dans le coût élevé qu’implique une telle démarche. D’autres solutions alternatives moins coûteuses sont envisageables. 1. Participation des propriétaires calculée sur la plus value foncière Le système qui consiste à ne pas acheter les terrains et à taxer les riverains est plus intéressant financièrement puisqu’il peut être appliqué sur l’ensemble des rues de la ville et rapporte ainsi plus d’argent. Toutefois, il est plus difficile à mettre en place pour plusieurs raisons : - Difficulté politique : Les habitants n’aiment pas payer des taxes, en particuliers les propriétaires qui sont les gens les plus influents en politique. - Difficulté d’un point de vue fiscal : Pour établir une taxe juste en matière de taxe foncière, il faut connaître la valeur réelle des terrains. Or pour cela, il faut d’une part une économie de marché libérale et d’autre part que les transactions entre propriétaires et les acheteurs soient transparentes pour que l’on connaisse chaque année la réalité des prix. Au Vietnam ce n’est pas le cas : les prix du marché du m² de terrain ne sont pas connus de manière officielle. En France, ce n’est pas le cas non plus, en effet, même si les ministères ont connaissance des statistiques du prix des terrains, ces données restent peu accessibles et surtout elles ne sont pas mises à jour, le marché n’est pas totalement transparent. Les taxes ne correspondent pas à la réalité du marché en temps réel. Les Etats-Unis sont le seul pays du monde qui possède une véritable taxation des terrains au prix du marché et qui récupère la plus-value de façon la plus juste, étant le pays le plus libéral. C’est ainsi que, plusieurs lignes du métro de New York ont été intégralement payées par les taxes appliquées sur les propriétaires riverains. Deux raisons principales contribuent à la transparence 51 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ lý do chính góp phần giải thích về tính minh bạch của thị trường đất đai ở Mỹ: 2. Thuế đánh trên giá trị gia tăng của đất và thu sau. • Một là lý do về văn hóa: người Mỹ không xấu hổ về việc kiếm tiền, do đó họ không e ngại khi nói về tiền. Vì thế, họ hoàn toàn minh bạch về giá trị tài sản của mình. • Lý do thứ hai liên quan đến phương thức mua đất: Người Mỹ vay tiền rất nhiều từ ngân hàng, do đó phải có tài sản (giá trị đất đai và bất động sản) thế chấp. Vì vậy, phần đông người Mỹ đều nhờ chuyên gia bất động sản định giá nhà của mình khá thường xuyên. Kết quả là giá trị tài sản của họ rất sát với giá thị trường. Thuế đất cũng được xem xét lại mỗi năm và rất sát với giá thị trường. Thuế này thu khi chủ sở hữu bán tài sản của mình. Cách đánh thuế này là công bằng nhất vì nó dựa trên giá trị gia tăng thật, nhưng đối với chính quyền thì nó không hiệu quả bằng một vì chính quyền không thu ngay được giá trị gia tăng mà phải chờ đến khi chủ sở hữu bán tài sản. Cách này cũng không hiệu quả khi dùng để tìm nguồn tài chính đầu tư cho các dự án. Ngoài ra, mức thuế suất sẽ càng giảm nếu người chủ sở hữu giữ lô đất của mình càng lâu. Do đó, nếu chủ sở hữu càng lâu bán tài sản, thì mức thu của nhà nước cũng sẽ càng giảm. Tuy nhiên, cách tính thuế này không gây sốc cho các chủ sở hữu. Thuế này đánh trên tất cả các giao dịch bất động sản. Có nhiều cách để đánh thuế đất đối với các chủ sở hữu. 2. Đóng góp của các chủ sở hữu vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng 1. Thuế đánh trên giá trị gia tăng của đất và thu trước Ta cần phân biệt đóng góp của những người ở xung quanh công trình công cộng (đóng góp này được tính toán trên cơ sở tổng chi phí cho công trình) với thuế cơ sở hạ tầng (thuế này dùng để đầu tư cho cơ sở hạ tầng nói chung và mọi chủ đầu tư đều phải đóng). Chính quyền cho rằng nhờ việc xây dựng các công trình hạ tầng, nên giá đất của khu vực xung quanh đó tăng lên. Ở Tây Ban Nha và ở Mỹ, chủ sở hữu các khu đất này sẽ bị đánh thuế ngay lập tức, tùy theo mức tăng giá đất của họ. Ở Tây Ban Nha, thuế này gắn với một phạm vi nhất định. Trên lý thuyết, những người ở xung quanh công trình có thể phải đóng đến 90% giá trị đầu tư cho công trình mà không được báo trước. Mỗi chủ sở hữu phải đóng thuế tỉ lệ thuận với diện tích lô đất của mình. Nếu chủ sở hữu không có tiền đóng ngay, thì anh ta có hai lựa chọn: một là, thương lượng với chính quyền để giãn thời hạn đóng thuế ; hai là, bán đất đó cho chính quyền và chính quyền bắt buộc phải mua. Ở Mỹ, thuế này đánh trên tất cả các lô đất tăng giá. Giá trị đất được cập nhật gần như liên tục, điều này cho phép điều chỉnh thường xuyên mức thuế đối với giá trị gia tăng của đất. Chính quyền cũng có thể yêu cầu khảo sát về việc cập nhật giá đất tại một khu vực nhất định. Khi đó, thuế đất cũng sẽ được thu với một mức đặc biệt. 52 2.1. Đóng góp của những người ở xung quanh công trình công cộng Trong trường hợp này, cơ sở để tính toán không phải là giá trị gia tăng mà là kinh phí thực tế đầu tư cho công trình. Cách tính này dễ hơn cách xác định giá trị gia tăng, nhưng có thể gây ra nhiều rủi ro cho các chủ sở hữu vì ta không biết tài sản của họ sẽ tăng lên bao nhiêu. Cách này cũng không thật sự công bằng vì trên thực tế, những người ở nơi khác cũng có thể sử dụng công trình công cộng này mặc dù công trình đó được những người ở xung quanh đóng góp xây dựng, ví dụ đường giao thông. Ở Đức, khi thực hiện một dự án cải thiện hệ thống đường giao thông, chính quyền xác định phạm vi xung quanh dự án. Và những người nằm trong phạm vi này sẽ đóng góp tài chính cho dự án, mức đóng góp tỉ lệ thuận với diện tích đất của họ. Cách làm này cũng đã được áp dụng ở Pháp trong các dự án quy hoạch phân lô có xây dựng hệ thống đường giao thông hoặc dự án cải tạo đường giao thông hoặc trong các dự ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES du marché foncier aux Etat-Unis : La première raison est d’ordre culturel : les • Américains n’ont pas de honte à gagner de l’argent, il n’existe donc pas de tabou autour de l’argent, ce qui permet d’avoir une transparence totale quant à la valeur de leur bien. La deuxième raison se retrouve dans le mode • d’acquisition des terrains. Les Américains contractent de nombreux d’emprunts, pour lesquels les banques réclament des garanties hypothécaires, autrement dit des garanties sur la valeur des biens immobiliers et du foncier. Ainsi, la majorité des américains font évaluer leur maison pratiquement tous les ans fréquement par des experts immobiliers, d’où résulte une connaissance fine et en temps réel de la valeur des terrains. Les impôts liés au foncier sont donc réévalués tous les ans, au plus proche du marché réel. Il existe plusieurs façons de taxer les propriétaires fonciers 1. La taxe a priori sur la valeur des terrains Dans ce cas, les autorités partent du postulat que, suite à l’implantation d’un équipement, les terrains riverains vont bénéficier d’une plus-value foncière. En Espagne ou aux Etats-Unis, les riverains sont taxés immédiatement selon l’augmentation de la valeur du bien. En Espagne, cette taxe est liée à un périmètre opérationnel. En théorie, les riverains peuvent avoir à payer 90% des équipements implantés près de chez eux sans qu’ils ne soient prévenus à l’avance. Chaque propriétaire doit payer la taxe proportionnellement à la surface de son terrain. S’il n’a pas les moyens de payer dans l’immédiat, il a le choix entre négocier avec la mairie l’étalement des paiements, ou la revente de son terrain à la mairie qui est obligée de l’acheter. Aux États-Unis la taxe est appliquée de façon générale sur tous les terrains ayant pris de la valeur. L’actualisation de la valeur foncière est permanente, ce qui permet d’ajuster régulièrement les taxes liées à la plus-value foncière. La collectivité peut aussi demander une enquête spécifique sur l’actualisation de la valeur foncière sur un périmètre particulier. Dans ce dernier cas, la taxe est prélevée de manière spécifique. 2. La taxe a posteriori appelée taxe sur les plus -values Cette taxe est prélevée lors de la revente du bien immobilier au moment de la transaction. Ce système est le plus juste puisqu’il se base sur la plus value réellement constatée, mais il est moins efficace pour la collectivité qui ne récupère pas tout de suite le bénéfice de la plus-value, puisqu’il faut attendre la vente suivante. Ce système n’est pas efficace pour financer des opérations. En outre, il est généralement assorti d’une décote de taxe proportionnelle à la durée de détention du bien, de sorte que la plus value récupérée par la puissance publique diminue à mesure que le temps passe. Toutefois, cette méthode est moins violente pour le propriétaire. Il s’agit d’une taxe globale qui s’applique à toutes les reventes immobilières. 2. Participation des propriétaires liée aux équipement publics On distingue les participations demandées aux riverains calculées sur le coût d’un équipement spécifique les concernant des autres taxes d’équipement général qui peuvent être demandées à tout constructeur pour financer globalement les équipements urbains sans que ceux-ci soient particulièrement affectés à telle ou telle opération. 2.1. Redevance de riverains calculée sur le coût de réalisation d’un équipement public Dans ce cas, la base de calcul n’est pas la plus-value, mais le coût réel des travaux. Ce calcul est plus facile à déterminer a priori que l’éventuelle plus-value, mais il peut être plus risqué pour les propriétaires compte tenu qu’on ne sait pas dans quelle mesure ils pourront dégager une plus-value. Il n’est pas non plus très juste, parce que dans la pratique les autres habitants peuvent aussi utiliser l’équipement même si ce sont seulement les riverains qui l’ont financé, comme par exemple une voie publique. En Allemagne, lorsqu’une opération d’amélioration de voirie est mise en œuvre, la collectivité détermine un périmètre qui englobe spécifiquement les riverains de la voirie. Ce sont alors les riverains qui paient l’aménagement, au prorata de surface de leur 53 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ án nhỏ. Đối với chính quyền, cách làm này cũng giúp thu được thuế trước khi thi công dự án. Đổi lại, chính quyền cũng phải thực hiện dự án theo đúng kế hoạch đã dự kiến, nếu không đúng, chính quyền sẽ bị bắt buộc hoàn trả lại phần đóng góp của người dân. 2.2. Thuế cơ sở hạ tầng Ở Pháp, thuế này được gọi là Thuế địa phương về cơ sở hạ tầng dùng để đầu tư xây dựng và bảo trì công trình công cộng nói chung. Hầu như quốc gia nào cũng có thuế xây dựng dùng để bảo trì các công trình công cộng hiện hữu. Thuế này được thu khi cấp giấy phép xây dựng (kể cả công trình xây dựng mới lẫn công trình mở rộng - trừ các công trình công cộng). Diện tích xây dựng càng nhiều thì đóng thuế này càng cao. Thuế này dùng để đầu tư cho: - Công trình công cộng - Hoạt động của hội đồng kiến trúc (CAUE) - Tạo quỹ đất để thành lập các vườn thiên nhiên Tăng thuế đối với trường hợp có mật độ xây dựng cao: Ở Pháp, trong một số khu vực, chính quyền địa phương có thể cho phép nhà đầu tư tăng diện tích sàn xây dựng với điều kiện nhà đầu tư phải đóng thuế đất tương ứng với phần diện tích sàn được tăng thêm, tức là nhà đầu tư đóng thuế đất cho phần diện tích đất ảo. Ví dụ: Tại một khu vực, chính quyền có thể cho phép nhà đầu tư tăng thêm 0,5 vào hệ số sử dụng đất. Nếu nhà đầu tư có một khu đất với diện tích là 1.000 m2, thì với mức tăng thêm 0,5 vào hệ số sử dụng đất, nhà đầu tư sẽ được xây thêm 500 m2 diện tích sàn. Tuy nhiên, chính quyền ngày càng ít sử dụng loại thuế này vì nó sẽ làm cho chiều cao của các công trình trong khu vực không đồng nhất và không hài hòa. 3. Đóng góp trên cơ sở thương lượng tự do (ví dụ ở Anh) Ở tất cả các nước Châu Âu, việc đóng góp qua thương lượng được quy định và cho phép đầu tư các công trình công cộng có liên quan trực tiếp đến một dự án quy hoạch. Nước Anh là một trường hợp ngoại lệ vì chính quyền địa phương ở Anh có thể thương lượng về mức đóng góp của nhà đầu tư đối với mọi công trình công cộng, không nhất thiết công trình đó phải gắn với một dự án quy hoạch. Cách đóng góp này có tên gọi là "Planning Gains". 4. Đóng góp bằng vật chất: nhượng đất Tại một số vùng ở Đức, khi giá đất tăng lên nhờ vào việc xây dựng công trình công cộng, thì thuế trên giá trị gia tăng của đất có thể được đóng bằng tiền hoặc bằng vật chất. Do đó, chủ sở hữu một khu đất có thể nhượng đến 50% diện tích đất của mình cho chính quyền. Cách làm này khá hấp dẫn đối với những nhà đầu tư có nhiều đất và cũng giúp cho chính quyền có thể tạo được quỹ đất để phát triển nhà ở xã hội. Nó cũng giúp tạo thuận lợi cho chính sách hỗn hợp xã hội. Theo lý thuyết, với những cách đánh thuế đã trình bày ở trên, chính quyền có thể thu lại được phần vốn đầu tư cho các công trình công cộng. Nhưng trên thực tế, khó có thể đạt được điều này vì nó đòi hỏi phải có quyết tâm chính trị để áp đặt các loại thuế nói trên. Chỉ có một vài nước ở Bắc Âu là có thể làm được điều này. Ở Pháp, chính phủ thu các loại thuế, sau đó phân bổ lại cho địa phương. Điều này giúp tránh được nạn tham nhũng của công chức địa phương và giúp chính phủ có được bức tranh tổng thể về giá trị gia tăng của đất trên cả nước. Nhận xét và trao đổi Học viên: Một dự án quy hoạch vừa mang lại lợi ích trực tiếp cho những người xung quanh vừa cho toàn bộ khu vực. Ông Castel: Một dự án nhỏ có thể lỗ, nếu xét về mặt tài chính, nhưng nó có tác động tích cực đối với sự phát triển của toàn khu vực rộng lớn hơn và tạo ra giá trị gia tăng cho đất ở khu vực đó. Ở Pháp, nhà nước thu lại giá trị gia tăng này khi chủ sở hữu bán bất động sản của mình. ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES terrain. Ce système est également utilisé en France notamment dans les lotissements pour la création de route nouvelle ou la réhabilitation de voirie ou encore pour de très petites opérations. Il présente l’avantage, pour la collectivité, de pouvoir récolter la taxe avant le début des travaux. En contrepartie, la collectivité doit réaliser les travaux dans le calendrier prévu sous peine de se voir obligée de rembourser. 2.2. Taxes générales liées à la réalisation des équipements publics 4. Participation en nature : don de terrain En France, cette taxe est appelée Taxe locale d’équipement. Cette taxe sert à financer la construction et l’entretien d’équipements publics, de façon générale. Il existe pratiquement dans tous les pays une taxe sur les constructions qui permet de financer l’entretien des équipements existants. Elle est prélevé sur chaque permis de construire (aussi bien pour les nouvelles constructions – sauf sur les équipements publics eux-mêmes – que pour les extensions de bâti existant) et est proportionnelle au nombre de m² construits. Cette taxe se compose de plusieurs sous-taxes permettant de financer : Dans certains lands allemands, lorsqu’un site prend de la valeur suite à la construction d’un équipement public par exemple, la taxe sur la plus-value foncière peut être payée soit avec de l’argent, soit en nature. Le propriétaire peut alors céder jusqu’à 50% de son terrain à la collectivité Ce système est intéressant pour les investisseurs qui possèdent beaucoup de terrains. Cela permet à la collectivité de se créer des réserves foncières sur que lesquelles elle va par exemple pouvoir construire des logements sociaux. Cette stratégie de paiement en nature permet dans ce cas de favoriser la mixité sociale. - Les équipements publics, - Les conseils en architecture (CAUE), - Les réserves foncières permettant de créer des parcs naturels. Cas de surtaxe pour densification : En France, dans certaines zones, il existe des autorisations spéciales, décidées à l’initiative des collectivités locales, permettant aux investisseurs de sur-densifier leurs programmes, à condition que ceux-ci paient en taxe le terrain dont ils auraient eu besoin pour construire plus en hauteur. Ils paient du terrain virtuel. Exemple d’une zone sur laquelle la municipalité autorise les investisseurs à ajouter 0,5 au COS : le promoteur qui possède une parcelle de 1000 m² peut construire 500 m² de plancher en plus que le COS originel indiqué. Les collectivités ont de moins en moins recours à ce type de taxes car cela donne des aberrations architecturales. En effet, il est alors difficile d’obtenir des hauteurs de bâti homogènes et harmonieuses sur la zone en question. 3. Participation librement négociée (exemple anglais) Dans tous les pays d’Europe, la participation 54 négociée est encadrée et permet de financer les équipements publics en lien direct avec une opération d’aménagement. L’Angleterre fait office d’exception puisque les collectivités anglaises peuvent négocier une participation pour la création de n’importe quel équipement public, pas forcément en lien avec une opération d’aménagement déterminée. Cette participation porte le nom de « Planning Gains ». En théorie, avec chacun de ces systèmes de taxes qui permettent de récupérer la plus-value foncière, les collectivités sont censées récolter assez de fonds pour financer les équipements publics. En pratique, il est très difficile d’y parvenir car il faut du courage politique pour imposer ces taxes. Seuls quelques pays du nord de l’Europe y parviennent. En France, l’Etat collecte l’ensemble des taxes puis les reverse aux collectivités. Il évite ainsi la tentation de corruption des fonctionnaires locaux et cela lui permet d’acquérir une vision nationale de la valeur foncière. Remarques et échanges Un participant remarque qu’une opération d’aménagement bénéficie aux riverains directs mais aussi à tout le quartier. M. Castel abonde dans ce sens. Une petite opération peut parfois, d’un point de vu comptable, apparaître déficitaire, alors qu’en fait elle impacte positivement le développement de l’ensemble d’une zone plus large et génère une revalorisation des terrains de l’ensemble du quartier. En France, cette plus-value est récupérée a posteriori, lors de la vente immobilière du terrain. 55 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ V. Thiết kế kiến trúc xung quanh không gian công cộng 1. Xác định chiều cao và mật độ theo thị trường và theo quy định Thiết kế đô thị phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có yếu tố nhà quy hoạch có thể kiểm soát được và có yếu tố không. Nhà quy hoạch có thể kiểm soát được các yếu tố áp đặt cho kiến trúc sư, nhưng không kiểm soát được các yếu tố do thị trường quyết định. Đối với những yếu tố không ảnh hưởng đến bài toán tài chính của nhà đầu tư, nhà quy hoạch có thể đưa ra một số quy định bắt buộc. Thị trường có thể điều tiết mật độ như thế nào? Ví dụ trường hợp Thành phố Houston ở bang Texas Houston là thành phố không có quy hoạch về mật độ. Và ta nhận thấy ở thành phố này, mật độ xây dựng rất cao tại khu trung tâm nơi có sức ép về đất đai lớn nhất. Càng đi ra vùng ven, nơi có sức ép về đất đai thấp, thì chiều cao càng giảm nhanh chóng. Ở tất cả các thành phố trên thế giới, ta nhận thấy nhà quy hoạch đô thị có xu hướng chống lại sức ép về đất đai ở khu trung tâm để chiều cao của công trình ở khu vực này không quá cao. Họ cũng mong muốn xây dựng các thành phố mới với chung cư cao tầng ở vùng ven, tức là tăng mật độ ở đây, trong khi đây là khu vực xây thấp tầng theo thị trường. Như vậy, nhà quy hoạch đi ngược lại với thị trường. Làm thế nào để kích thích đầu tư ở khu vực vùng ven, vốn không có sức hút và hạn chế áp lực của thị trường ở khu vực trung tâm? Ở khu trung tâm, quy định về quy hoạch phần nào ngăn chặn được áp lực về đất đai, nhưng cũng rất mong manh vì chính các vị đại biểu dân cử cũng bị áp lực nên quy định thay đổi khá thường xuyên. Ở phương Tây, việc lấy ý kiến công khai thật sự giúp giảm áp lực về đất đai. Thật vậy, sự tham gia và vai trò tích cực của người dân đối với môi trường sống 56 xung quanh có thể làm đối trọng với áp lực của nhà đầu tư đối với chính trị gia để không làm gia tăng mật độ. Người dân không thích người ta xây nhà cao tầng trước hoặc gần nhà mình. Nhưng hiện nay, phương pháp này đôi khi tạo ra tác dụng ngược, tức là làm cho khu trung tâm ở một số thành phố không thể tăng mật độ được. Các nhà quy hoạch đô thị cho rằng cần phải tăng mật độ tại khu trung tâm vì khi thu nhập của người dân tăng lên thì diện tích nhà ở của họ cũng tăng lên. Do đó, nếu ta không xây dựng thêm ở khu trung tâm, thì dân số ở đây sẽ giảm. Hiện nay, khu trung tâm có nhiều công trình tiện ích, thương mại, dịch vụ…trong khi dân số ở đây không tăng, thậm chí còn có xu hướng giảm. Nhưng những người dân còn ở lại tại khu trung tâm gây áp lực để bảo vệ môi trường sống của mình, họ không muốn các công trình cao tầng xây trong khu vực mình ở. Ở vùng ven, việc tăng mật độ càng khó hơn vì thị trường không ủng hộ và vì người dân ở đây, cũng giống như ở khu trung tâm, không muốn các tòa nhà cao tầng được xây dựng xung quang khu vực mình ở. Vậy làm thế nào để tác động lên thị trường? Giao thông thuận tiện và thông thoáng là yếu tố quan trọng nhất vì nó tác động mạnh nhất đến mật mật độ và chiều cao. Khu trung tâm có sức hấp dẫn nhất vì nó có vị trí chiến lược nhất: trung tâm của thị trường. Giao thông càng thuận tiện thì sức hấp dẫn của khu trung tâm càng tăng và do đó áp lực về đất đai ở đây sẽ càng lớn. Ở tất cả các thành phố trên thế giới, thông qua công tác quy hoạch, các nhà quy hoạch đều tạo ra một mâu thuẫn: 1. Một mặt họ mong muốn giảm mật độ ở khu trung tâm và tăng mật độ ở vùng ven. 2. Mặt khác, họ lại cải thiện giao thông vào khu trung tâm, theo xu hướng của thị trường. Do đó, làm tăng áp lực đất đai và sức hấp dẫn của khu trung tâm, tức làm tăng mật độ. Mọi mạng lưới giao thông công cộng kể cả đường sắt đều có hình ngôi sao hướng vào khu trung tâm. ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES V. Le design de l’architecture autour des espaces publics 1. La détermination des hauteurs et des densités minimales par le marché d’une part et par le règlement d’autre part Le design urbain est le résultat de différents facteurs qui peuvent être plus ou moins maîtrisés par les professionnels de l’aménagement. Il s’agit, dans un premier temps, d’identifier les règles que peut produire l’architecte et celles qui découlent du marché. Sur certaines contraintes qui n’ont pas d’impact dans le bilan des aménageurs, les architectes peuvent imposer certaines mesures. Comment le marché peut-il à lui seul réguler les densités ? L’exemple de Houston au Texas Houston est une ville qui ne planifie pas les densités. Dès lors, on constate une forte verticalisation dans le centre où la pression foncière est la plus forte mais aussi des hauteurs qui tendent à très vite redescendre en périphérie, secteur moins soumis à la pression foncière. Dans toutes les villes du monde, on constate que les professionnels de l’urbanisme ont tendance à vouloir lutter contre les pressions foncières dans le centre ville pour ne pas que les immeubles montent trop haut. Ils souhaiteraient également construire des villes nouvelles en périphérie avec des immeubles hauts et donc faire monter les densités en périphérie, là où elles sont naturellement plus basses. Ces urbanistes vont donc à l’encontre des effets engendrés par le marché. Dès lors, comment faire pour stimuler en périphérie ce qui n’existe pas, c’est-à-dire une forte demande foncière, et limiter au centre ce que le marché induit ? Dans le centre, les règlements arrivent un peu à bloquer la pression foncière, mais de manière fragile : la pression exercée sur les élus les amène à changer fréquemment les règlements. En Occident, l’enquête publique permet réellement de limiter la pression. En effet, le jeu de la démocratie, autrement dit, la participation et le rôle actif des habitants sur leur environnement permet de contrebalancer la pression des investisseurs en faisant pression sur la sphère politique pour ne pas faire monter les densités. Les riverains n’aiment pas voir se construire de grands immeubles devant chez eux, ou à proximité. Mais aujourd’hui ce jeu de la démocratie qui fonctionne le mieux pour limiter les hauteurs engendre des effets pervers en empêchant les territoires de centre ville de se densifier par exemple. En effet, les urbanistes font valoir qu’il serait nécessaire de densifier davantage les centreville maintenant, car l’augmentation des revenus et du confort se traduit par une augmentation du nombre de mètres carrés habités par habitant, ce qui a pour conséquence automatique de faire baisser la population si l’on ne construit pas davantage. Les centres-villes apparaissent sur-équipés pour une population qui n’augmente pas, voire qui a tendance à baisser. Mais les habitants en place font pression pour sauvegarder leur cadre de vie et éviter de voir se construire de nouveaux immeubles dans leur voisinage. En périphérie, il est encore plus difficile de densifier car, non seulement le marché n’induit pas ce type de phénomène mais en plus, de la même manière que dans le centre-ville, les habitants ne veulent pas voir se construire des immeubles de grande hauteur. Alors comment influencer le marché ? La fluidité des déplacements – et donc des transports – est essentielle car elle influence le plus la courbe des densités. Le centre est le territoire le plus attractif car il possède la position la plus stratégique : position centrale des aires de marché. Plus les transports sont efficaces, plus la gravité et l’attractivité du centre augmentent et plus la pression foncière est forte. A travers leur planification, les urbanistes créent un paradoxe qui se retrouve partout à travers le monde : 1. Ils cherchent à réduire les densités au centre et à les augmenter en périphérie, 2. Ils augmentent la fluidité et l’accessibilité des transports vers et dans le centre ville, allant ainsi dans le sens de la courbe du marché : ils encourageant la pression foncière et l’attractivité du centre, donc la pression pour la densification au centre. En effet tous les réseaux ferroviaires et de transports en commun sont des réseaux en étoile qui renforcent la centralité. 57 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ Các dự án mở tuyến đường sắt và tuyến giao thông công cộng vòng qua khu trung tâm là có, nhưng khó thực hiện vì chi phí cao và không thu hút khách bằng các tuyến đường xuyên tâm. Trái lại, nhiều tuyến đường vành đai đã được xây dựng để giải tỏa áp lực cho khu trung tâm bằng cách hạn chế lưu thông vào đây và đưa dòng xe ra vùng ven. Trong khu trung tâm, cần gây khó khăn cho lưu thông bằng một số biện pháp kỹ thuật để làm nản lòng người tham gia giao thông, ví dụ: - Thu phí vào khu trung tâm, - Làm các tuyến đường nhỏ dẫn vào khu trung tâm... Ngoài ra, cũng cần phát triển các trung tâm phụ ở vùng ven để chuyển áp lực kinh tế ra ngoài khu trung tâm. Gần đây, các nhà quy hoạch đô thị hướng đến giải pháp này (thúc đẩy sự phát triển đa cực, giảm đường dẫn vào khu trung tâm). Cách tiếp cận mới tỏ ra hiệu quả vì phù hợp với nguyện vọng của người dân. Trái lại, các nhà kinh tế không theo cách tiếp cận này và có quan điểm khác về sự phát triển của địa bàn. Theo các nhà kinh tế, hệ thống hướng tâm đẩy mạnh tính phân cực của địa bàn. Tính phân cực càng mạnh, thì chứng tỏ sự phát triển kinh tế càng năng động. Trên thực tế hiện nay, sự phát triển đô thị đang có đồng thời cả hai mô hình nói trên. Với sự phát triển của mạng thông tin, nhiều thành phố được tổ chức theo hướng đa trung tâm hoạt động như một trung tâm lớn. Sự xuất hiện của một đô thị đa trung tâm ở địa phương hoàn toàn phù hợp với sự phát triển của một trung tâm kinh tế lớn ở cấp vùng. Tại khu trung tâm lịch sử của nhiều thành phố lớn trên thế giới, giải pháp được lựa chọn là sử dụng phương tiện giao thông công cộng để ra vào khu trung tâm đồng thời hạn chế sử dụng xe hơi vào ra khu vực này. Giá trị đất đai, giá trị di sản và áp lực của người dân là những yếu tố làm cho mọi ý định xây dựng tuyến đường mới hoặc mở rộng tuyến đường hiện hữu ở khu trung tâm không thể thực hiện được. Luân Đôn là một thành phố dịch vụ nên người lao động trong doanh nghiệp ở đây sử dụng giao thông công cộng để ra vào khu trung tâm, do đó xe hơi cá nhân bị hạn chế sử dụng ở mức tối đa tại khu vực này (phí vào khu trung tâm rất cao). Strasbourg cũng là một thành phố có nhiều giải pháp mạnh nhằm hạn chế sử dụng xe hơi ở khu trung tâm. Mặc dù thành phố đã di dời các doanh nghiệp ra ngoài khu trung tâm bằng cách hạn chế sử dụng xe hơi vào khu trung tâm, nhưng đổi lại thành phố đã thu hút được các hoạt động khác của khu vực dịch vụ. Nhờ đó, số lượng việc làm vẫn được duy trì ở khu trung tâm. Như vậy, nhìn dưới góc độ kinh tế, thành phố Strasbourg vẫn giữ được sự phát triển với mô hình phát triển đô thị mới này. Khó khăn của TPHCM nằm ở chổ nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi và phải cần nhiều thời gian mới hoàn thành giai đoạn này. Hiện nay, thành phố vẫn cần tạo thuận lợi cho việc ra vào khu trung tâm để thúc đẩy hoạt động kinh tế trong đó có thủ công nghiệp. Do đó, thành phố có nhu cầu cấp bách phải mở rộng các tuyến đường. Ngoài ra, trừ một số công trình có tính chất biểu tượng thành phố chưa có chính sách bảo tồn di sản đô thị. Trong những năm tới, theo logic, chính sách quy hoạch của thành phố cần hướng đến thu hẹp lòng đường của những tuyến đường dẫn vào khu trung tâm hoặc bố trí tuyến tramway ở giữa các tuyến đường lớn vào khu trung tâm. Kết luận: Trong công tác thiết kế đô thị, để tác động đến chiều cao của tòa nhà, cần cân nhắc sử dụng 3 biện pháp sau: 1. Quy định, 2. Sự tham gia dân chủ của người dân, 3. Giao thông. Thực hiện điều này là khá khó khăn vì cần có sự tham gia của nhiều sở, ban ngành, nhưng các đơn vị này khó có thể phối hợp tốt với nhau do tính cục bộ của từng ngành và từng chủ thể. ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES Des projets de rocade de chemin de fer ou de transports en commun existent, mais sont difficiles à réaliser en raison de leur coût et de leur moindre rentabilité par rapport aux lignes radiales. En revanche, dans le domaine routier, il y a déjà longtemps que des rocades sont réalisées pour désengorger le centre, tout en limitant son accès, et reporter le trafic en périphérie. Au centre, il s’agit alors de gêner la circulation par différents dispositifs décourageant les usagers, tels que : - Mettre en place des péages urbains, - Rendre l’accès difficile par la pénétration de petites voies jusqu’au centre… Il s’agit également, de recréer des centralités en périphérie de façon à répartir, à renvoyer la pression économique vers l’extérieur du centre. Depuis peu, les urbanistes se dirigent vers ces solutions (favoriser le développement multipolaire, réduire l’accès au centre, etc). Ces nouvelles façons d’appréhender la ville fonctionnent car elles vont dans le sens des demandes de la population, créant ainsi un nouveau modèle d'agglomération. En revanche, les économistes ne sont pas de cet avis et ont une toute autre conception de la productivité des territoires. Selon eux, un système radical renforce la polarisation et encourage la fluidité des transports vers le centre ville. La pression foncière constitue la meilleure façon d’augmenter la compétitivité des entreprises. Plus la polarisation est forte, plus elle témoigne de la dynamique économique du territoire. Dans les faits, aujourd’hui le système est ambigu et essaie de faire cohabiter les deux systèmes de développement urbain. Avec le développement des réseaux de communications, plusieurs villes en réseau, organisées de façon multipolaire, fonctionnent en réalité comme un grand pôle d’ensemble. L’apparition d’une multipolarité « physique » au niveau local n’est pas incompatible avec le renforcement d’une grande polarité « économique » à l’échelle régionale. Londres est la seule ville où le nouveau système de coalition fonctionne. Le renforcement de l’accès au centre par les transports en commun et la réduction de l’accès en voiture sont en effet la solution retenue par toutes les villes historiques. La valeur du foncier, la valeur du patrimoine historique et la pression sociale des habitants rendent aujourd’hui impossible toute tentative de création de nouvelles voies rapides ou 58 d’élargissement de rues au centre. Londres comporte des activités essentiellement tertiaires qui permettent aux salariés des entreprises d’accéder au centre en transport en commun, d’où un accès extrêmement contraint aux automobiles dans le centre ville de Londres (péage urbain très cher). La ville de Strasbourg tend vers ce même système en ayant adopté depuis peu cette stratégie. La ville a étudié la situation et est arrivée à la conclusion qu'en rejetant les entreprises en périphérie par un système qui décourage les automobilistes à pénétrer au sein du centre ville, elle réussirait alors à attirer d'autres autres types d’activités issues du tertiaire qui lui permettraient de combler les départs des autres entreprises en termes d’emplois. D’un point de vue économique la ville de Strasbourg ne ressort donc pas perdante de ce nouveau mode de développement urbain. En France, maintenant que ce système de fabrication de la ville est bien intégré par les techniciens, il engendre des conflits d’intérêts et des litiges dans le fonctionnement de la planification car chaque service souhaite intervenir sur des sujets qui ne le concernent pas directement. La difficulté à HCMV réside dans le fait que l’économie soit actuellement en transition, une transition qui est loin d’être achevée. Le système actuel a encore besoin de favoriser l’accès au centre-ville à de nombreuses activités, y compris les activités d’artisanat, d’où ce besoin impérieux d’élargir les axes. En second lieu, à part quelques bâtiments symboliques, HCMV n’a pas encore de politique de protection de son patrimoine urbain. Mais dans quelques années, la politique d’aménagement de la ville devrait logiquement tendre à réduire ces axes de pénétration au centre ou à les réaménager en implantant des lignes de tramway en leur centre par exemple. En conclusion, pour influencer les hauteurs des immeubles dans le design urbain, il faut jouer sur trois leviers : 1. Le règlement, la planification, 2. La démocratie locale, 3. Les transports. L’exercice s’avère difficile car il nécessite l’intervention de registres et de services techniques différents qui peuvent avoir du mal à travailler ensemble, du fait du cloisonnement des services, des départements ou encore des acteurs. 59 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ Nhận xét và trao đổi Học viên: Hiện nay, TPHCM đã quyết định không mở rộng các tuyến đường ở khu trung tâm và đang tiến hành chính sách di dời cơ sở sản xuất ra ngoại thành. Dự án thu phí xe vào khu trung tâm cũng đã được phê duyệt. Ông Castel: Ở phương Tây, hầu như không cần có chính sách hỗ trợ việc di dời doanh nghiệp ra khỏi khu trung tâm. Điều này không cần thiết vì khi ta giảm khả năng tiếp cận vào khu trung tâm, thì doanh nghiệp sẽ tự động chuyển ra khỏi khu vực này. Cần nhắc lại là quá trình này gắn với mức lương cao ở các nước phương Tây (vì doanh nghiệp không thể chấp nhận được việc trả lương cao cho nhân viên mà nhân viên lại mất quá nhiều thời gian để di chuyển ở khu trung tâm. Điều này sẽ làm mất tiền của doanh nghiệp). Hiện nay, ở Pháp, xu hướng này đang bị đảo ngược vì có quá nhiều doanh nghiệp đã ra khỏi khu trung tâm. Do đó, các nhà lãnh đạo và người dân đang tìm cách giữ lại các dịch vụ tối thiểu ở khu vực này. Ở TPHCM, việc chính quyền có chính sách di dời doanh nghiệp ra khỏi khu trung tâm là có thể hiểu được vì doanh nghiệp không tự di dời, do mức lương quá thấp và nguồn cung dịch vụ cũng như chất lượng mạng lưới thông tin ở ngoài khu trung tâm chưa đủ sức hấp dẫn. 2. Đưa ra các quy định đảm bảo hài hòa về kiến trúc Làm thế nào để điều chỉnh mật độ ở khu trung tâm? Như đã trình bày ở trên, sự kết hợp của ba yếu tố (quy định, sự tham gia của người dân và giao thông) sẽ điều tiết mật độ xây dựng, đôi khi không nhất thiết đi theo hướng chính quyền mong muốn. Trên thực tế, biên độ thương lượng với nhà đầu tư thường từ 1 đến 2 tầng, điều này có thể xử lý được khi điều chỉnh nhỏ quy hoạch đô thị mà không làm mất ổn định chung của quy hoạch vì khi mất cân đối trong quy hoạch, sẽ phải điểu chỉnh toàn bộ quy hoạch. 60 Ví dụ: Ban đầu, theo quy hoạch, khu vực A được xây năm tầng. Khi một chủ sở hữu rao bán lô đất trong khu vực này, thì anh ta sẽ cho nhiều nhà đầu tư tham gia đấu giá để bán được với giá cao nhất. Mỗi nhà đầu tư đều mời kiến trúc sư thiết kế tòa nhà năm tầng. Kiến trúc sư có đồ án thiết kế rẻ nhất sẽ chiến thắng vì nhà đầu tư với phương án thiết kế có chất lượng thấp sẽ có thêm tiền để trả tiền đất cao, do đó sẽ mua được lô đất nói trên, trong khi đó nhà đầu tư với phương án thiết kế có chất lượng cao, vật liệu xây dựng tốt sẽ không có đủ tiền để mua đất với giá cao. Vậy, nhà đầu tư có phương án thiết kế tệ nhất sẽ mua được đất và đi xin giấy phép xây dựng. Đến phòng cấp phép xây dựng, dự án của nhà đầu tư có nhiều khả năng bị từ chối cấp phép vì chất lượng quá thấp. Do đó, nhà đầu tư buộc phải thiết kế lại để dự án có chất lượng tốt hơn. Nhưng khi đó, lợi nhuận của anh ta sẽ giảm vì đã chi nhiều tiền để mua đất. Vì thế, nhà đầu tư phải giảm bớt lợi nhuận nếu muốn cải thiện chất lượng dự án. Trước tình hình đó, nhà đầu tư sẽ quay trở lại phòng cấp phép xây dựng và gặp các cấp có thẩm quyền để xin được xây thêm vài tầng nữa nhằm đảm bảo lợi nhuận cho mình và cải thiện được chất lượng dự án, ví dụ cải thiện về mặt kiến trúc và nhiệt. Trong trường hợp này, thông thường chính quyền chấp nhận cho nhà đầu tư tăng diện tích sàn nếu nhà đầu tư thực hiện một dự án có chất lượng tốt hơn. Đến đây, nhà đầu tư phải chờ thành phố điều chỉnh quy hoạch trước khi tái nộp hồ sơ xin phép xây dựng và sau đó sẽ tiến hành khởi công dự án. Cách làm này tuy không chính quy, nhưng nó là mô hình đang diễn ra trong thực tế. Hiện nay, một số thành phố đã đưa quy định thưởng vào quy chế quản lý đô thị, điều này cho phép tiến hành quy trình nói trên mà không cần điều chỉnh quy hoạch. Luật cũng quy định rõ các trường hợp được tăng mật độ, ví dụ dự án có cải thiện về nhiệt hoặc có tạo thuận lợi cho hỗn hợp xã hội. Luật không cho phép tăng mật độ trong trường hợp cải thiện chất lượng kiến trúc vì điều này mang tính chủ quan và không phải là ưu tiên. ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES Remarques et échanges Un participant commente la situation actuelle à HCMV et explique que la ville a décidé de ne plus élargir les axes dans le centre. Actuellement, une politique de délocalisation industrielle du centre ville vers la périphérie est mise en œuvre. Le projet d’implantation d’un péage a été approuvé aux abords du centre ville d’HCM. M. Castel rebondit et explique qu’en Occident le politique n’intervient pratiquement pas dans la délocalisation des entreprises. Ce n’est pas nécessaire dès lors que ce processus se met en place naturellement en réduisant l’accès au centre. Il faut à nouveau préciser que ce phénomène est à rattacher au niveau élevé des salaires dans les pays occidentaux (où les entreprises ne peuvent pas accepter que leurs employés et leurs livreurs perdent du temps dans les transports en centre-ville car cela ferait perdre de l’argent à l’entreprise). Aujourd’hui, la tendance s’est fortement inversée car les entreprises se sont trop délocalisées. Le politique et la population cherchent donc à garder un minimum de services dans le centre. Il est donc compréhensible qu’à HCMV, le politique doit intervenir pour délocaliser les entreprises car elles ne le font pas d’elles-mêmes, les salaires étant encore trop faibles, et l’offre de services et la qualité des réseaux de communication en périphérie n'étant pas assez attractifs.. 2. Fixer des règles d’harmonie architecturale Comment réguler les densités dans le centre ville ? Comme nous l’avons vu plus haut, l’association des trois facteurs (règlement de planification, démocratie locale et transports) fonctionnent bien en Occident pour limiter la hauteur, et réguler la densité des constructions, pas forcément dans le sens que souhaiteraient les autorités publiques. Très souvent, en réalité, la marge de négociation avec les investisseurs est de un à deux étages, ce qui reste acceptable pour les habitants. Ainsi, lorsque la force publique négocie avec l’investisseur, l’immeuble atteindra souvent six à sept étages au lieu des cinq étages, prévu et requis par le PLU. Ceci est gérable dans le cadre d'une simple modification de PLU sans mettre en péril l’équilibre général du document, qui entraînerait la nécessité de le réviser en totalité. En effet, supposons que, au départ le règlement indique qu’il est possible de construire un immeuble de cinq étages. Lorsqu’un particulier met son terrain, situé en centre-ville, en vente, il met en concurrence tous les investisseurs pour gagner le plus d’argent. Chaque investisseur demande à son architecte de lui dessiner un bâtiment de cinq étages. L’architecte le plus mauvais et le moins cher arrive toujours à faire une meilleure offre au privé qui vend son terrain car le projet est mauvais, ne coûte pas cher (mauvais design, mauvais matériaux…) et permet de dégager de l’argent pour remporter l’achat du terrain. L’investisseur qui envisage un projet peu cher, de basse qualité, remporte alors l’achat du terrain auprès du particulier, alors que l’investisseur qui aura pris un architecte avec un meilleur projet, de bonne qualité avec des matériaux de qualité ne pourra pas dégager assez de fonds pour payer le particulier et remporter la compétition. Dès lors, l’investisseur qui produira le plus mauvais projet sera celui qui se retrouvera à même de déposer un permis de construire. Arrivé au service d’instruction des permis de construire, le projet possède de grandes chances d’être refusé du fait de la mauvaise qualité du projet. L’investisseur est alors contraint de re-dessiner un projet de meilleure qualité. Mais son bénéfice s’effondre car il a déjà dépensé beaucoup d’argent dans l’achat du terrain et ne peut donc plus dégager assez de fonds pour améliorer son projet. L’investisseur se tourne vers la mairie et sollicite ainsi quelques étages en plus qui lui permettront de rétablir son bénéfice, moyennant une amélioration globale du projet, par exemple sur le plan thermique et architectural. Dans ce cas de figure, très souvent la collectivité accepte de concéder un à deux étages à l’investisseur pour densifier le projet s'il réalise un projet de meilleure qualité. L’investisseur devra alors attendre que le maire modifie de PLU avant de pouvoir redéposer un permis de construire et ensuite d’engager les travaux. Cette méthode n’est pas officielle mais elle constitue une alternative qui fonctionne. Aujourd’hui, un certain nombre de collectivités ont déjà introduit de telles règles de bonus de densité dans les réglements, ce qui permet de procéder à des améliorations sans même avoir à modifier le PLU. La loi a expressement prévu les cas où ces bonus de densité peuvent être autorisés, généralement en contrepartie d’améliorations thermiques ou pour favoriser la mixité sociale. La loi n’a pas permis d’autoriser des bonus de densité pour améliorer la qualité architecturale. Ce sujet est considéré comme trop subjectif et ne fait pas partie des priorités. 61 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ Nhận xét và trao đổi Học viên: Việc thường xuyên điều chỉnh quy hoạch có làm giảm uy tín của chính quyền không? Ông Castel: Để đảm bảo uy tín, việc điều chỉnh này chỉ diễn ra với biên độ rất nhỏ, (thêm một hoặc hai tầng). Chất lượng thường nằm ở những thay đổi nhỏ. Học viên: Ở TPHCM, chiều cao của công trình ngày càng tăng Ông Castel: Ở Pháp, nếu skyline xác định 5 tầng cho các tòa nhà, thì quy hoạch sẽ đưa ra chiều cao thấp hơn để nhà đầu tư có biên độ thương lượng với chính quyền. Do đó, các kiến trúc sư phải học cách thiết kế tòa nhà có chiều cao thêm hoặc bớt hai tầng. Sự hài hòa về kiến trúc nằm ở: 1. Đường mái: để cho tầm nhìn trên đường đồng nhất, hai tầng trên phải xây lùi vào. 2. Tầng trệt: cần phải chú ý đặc biệt đến tầng này vì nó nằm trong tầm mắt của người đi bộ 3. Nhịp của mặt tiền: cần phải áp đặt để đảm bảo sự hài hòa và thống nhất trên một tuyến đường. Kiến trúc sư giỏi là người có thể nối kết một cách hài hòa sự khác biệt về chiều cao và mật độ trong một khu phố. Một học viên hỏi về cách tốt nhất để lấy ý kiến của người dân một cách công bằng nhất. Có nên chú ý đến trình độ học vấn và giai tầng xã hội không? Việc lấy ý kiến người dân diễn ra như thế nào? Ông Castel: Trên thực tế rất khó tổ chức lấy ý kiến. Nói chung, ở Pháp, người có tiếng nói là người có học vấn và khá giả. Hiện tượng này được hai nhà xã hội học Callon và Lascoumes gọi là "dân chủ của người thuộc tầng lớp trên". Thật vậy, việc lấy ý kiến người dân chủ yếu là thông qua các tổ chức xã hội dân sự do những người thuộc tầng lớp trung lưu điều hành. Không có quy định về phương thức lấy ý kiến. Ở Lyon, người ta tổ chức tọa đàm với sự tham gia của đại diện các tổ chức xã hội dân sự, tổ chức xã hội nghề nghiệp. Một cấp cao hơn nữa để lấy ý kiến đó là tổ chức hội thảo. Cấp cao nhất và rộng rãi nhất là tổ chức khảo sát lấy ý kiến. Có nhiều cấp độ lấy ý kiến hướng đến nhiều nhóm đối tượng khác nhau. Cần tổng hợp ý kiến của nhiều giới, nhiều cấp để có được ý niệm đầy đủ nhất về nguyện vọng của người dân. Học viên: Luật ở Việt Nam cũng yêu cầu lấy ý kiến của người dân đối với các dự án lớn, nhưng không yêu cầu đối với các dự án trung bình. Ngoài ra, thành phố cũng có hội đồng kiến trúc bao gồm đại diện của các sở, ngành. Ở Pháp, có một hội đồng tương tự như vậy hay không? Ông Castel: Ở Pháp, có hội đồng tương tự như vậy, nhưng quyết định của hội đồng không có giá trị pháp lý. Ở Lyon, có một diễn đàn mang tên "Diễn đàn dự án đô thị". Khi chủ đầu tư thực hiện một dự án có quy mô đáng kể, một hội đồng thiên về các vấn đề quy hoạch sẽ được hình thành. Thông thường, hội đồng này do người đại diện của Cơ quan quy hoạch đứng đầu. Một số hội đồng hạn hẹp hơn cũng được thành lập trong quá trình cấp giấy phép xây dựng. Hội đồng này do một kiến trúc sư trưởng độc lập, không có liên hệ lợi ích (trực tiếp hoặc gián tiếp) với thành phố. Chính vì vậy, các kiến trúc sư đứng đầu các hội đồng này thường được mời từ xa đến để đảm bảo rằng họ không chịu áp lực của các nhà đầu tư tại địa phương. Kiến trúc sư trưởng có trách nhiệm đề ra các giải pháp cải thiện chất lượng của dự án xin giấy phép xây dựng để dự án dễ được chấp thuận hơn. ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES Remarques et échanges Un participant se demande si cette situation n’implique pas une perte de crédibilité pour le politique qui consent à changer régulièrement le PLU ? M. Castel justifie ce processus en expliquant qu’en effet c’est pour cette raison que les modifications sont consenties à la marge avec très peu d’étages accordés en plus. La qualité se joue souvent sur des petites modifications. Un participant déclare qu’à HCMV les hauteurs sont toujours surenchéries. M. Castel explique qu’en France, si le skyline situe les immeubles à cinq étages, alors, la règle d’urbanisme est parfois fixée en dessous à trois étages pour laisser une marge de manœuvre et de négociation à la mairie. C’est pourquoi les architectes doivent apprendre à dessiner des immeubles à plus ou moins deux étages. En effet, l’harmonie architecturale se joue ailleurs : 1. Sur la ligne d’acrotère : pour que la perspective de la rue soit homogène, les deux étages supplémentaires sont construits en retrait, 2. Sur le rez-de-chaussée qui doit faire l’objet d'une attention particulière car il s’agit de l’élément architectural qui est principalement soumis au regard des piétons, 3. Sur le rythme des façades qui doit être imposé pour une homogénéité et une cohérence dans une rue donnée. Un bon architecte parvient à lier de façon harmonieuse différentes hauteurs et densité au sein d’un même quartier. Un participant s’interroge sur la meilleure façon de recueillir l’avis des citoyens au plus juste. Faut-il prendre en compte les niveaux sociaux, d’éducation…? Comment procède-t-on concrètement au recueil de l’avis des habitants ? M. Castel expose qu’en réalité il est très difficile d’organiser la concertation. En général, ceux qui prennent le leadership et la parole en France sont les personnes les plus aisées et cultivées. Ce phénomène est appelé la « démocratie des classes supérieures éclairées » par les sociologues Callon et Lascoumes. En effet, le recueil de l’avis des habitants passe 62 principalement par des organisations de citoyens en société civile souvent menée par des personnes aisées. Par ailleurs, les avis sont parfois contradictoires. Il s’agit alors d’identifier et de privilégier les points de convergence de l’ensemble des habitants afin d’atteindre les objectifs partagés. Il n’y a pas de règles en matière de modalité de concertation. A Lyon, par exemple, sont organisées des tables-rondes avec des représentants du milieu professionnel et les associations d’habitants notamment. Un niveau plus large de concertation peut avoir lieu à travers l’organisation de séminaires et enfin le niveau de l’enquête publique est celui qui invite le plus large public à s’exprimer. Il existe donc plusieurs niveaux de concertation qui visent différents publics. Il s’agit donc de croiser ces niveaux de concertation afin de pouvoir se faire une idée la plus complète possible de ce que revendiquent les habitants. Un participant explique que la loi vietnamienne exige également le recueil de l’avis des habitants pour les grands projets mais pas pour les projets de taille moyenne. Par ailleurs, il a été mis en place des conseils architecturaux, souvent constitués des représentants des services. Existe-t-il des commissions de ce type en France ? M. Castel répond que ce type d’organe existe également en France mais qu’ils n’ont aucune valeur légale. A Lyon il existe un lieu d’échanges d’idées et de débats appelés « ateliers de projet urbain ». Lorsqu’un opérateur met en place un projet de taille significative, un conseil, orienté sur les problématiques en urbanisme se forme. Il est en général mené par l’agence d’urbanisme. Il existe également des conseils plus restreints mis en place dans le cadre de la délivrance de permis de construire. Ce type de conseil est dirigé par un architecte en chef qui n’a ni emprise ni intérêt particulier (direct ou indirect) avec le territoire. C’est pourquoi les architectes qui mènent ce genre de conseil viennent de loin pour être sûr qu’ils ne subissent pas de pression de la part des investisseurs locaux. Cet architecte proposera des pistes d’amélioration d’un projet donné faisant l’objet d’une demande de permis de construire pour que le projet ait plus de chance par la suite d’être accepté et validé par la collectivité. 63 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ Để hội đồng này hoạt động hiệu quả, cần hai điều kiện sau: - Người đứng đầu hội đồng phải là người không có mối liên hệ với các chủ thể tại địa phương để tránh mọi áp lực hoặc tránh bị hối lộ. - Hội đồng có toàn quyền quyết định: các vị đại biểu dân cử ủy quyền xem xét và đánh giá chất lượng dự án cho các chuyên gia về kỹ thuật. Chất lượng kiến trúc không còn nằm trong thẩm quyền quyết định của các đại biểu dân cử. Hỏi: Khi tiến hành lấy ý kiến, có nên tập trung vào những người ở gần khu vực dự án không? Ý kiến của họ có khách quan không? Làm thế nào để mời kiến trúc sư trưởng xem xét nhiều dự án? Ông Castel: Ở Lyon, kiến trúc sư trưởng đến làm việc hai tuần một lần. Để người này làm việc hiệu quả nhất, hồ sơ phải được chuẩn bị rất kỹ trước buổi làm việc. Về việc lấy ý kiến người dân, vấn đề xác định phạm vi lấy ý kiến được đặt ra. Thông thường, khi các chủ thể của dự án mời người dân cho ý kiến, thì những người ở xa rất ít cho ý kiến. Số người cho ý kiến nhiều nhất là những người chịu tác động của dự án. Có nên để như thế hay cần phải cân đối sự hiện diện của toàn bộ người dân bị ảnh hưởng? Vấn đề này không được đề cập đến trong thủ tục lấy ý kiến. Các địa phương được tự do trong việc tổ chức lấy ý kiến. Vấn đề này được đặc biệt đặt ra trong trường hợp xây mới hoặc mở rộng một tuyến đường quá cảnh vì những người sử dụng tuyến đường này ở xa khu vực dự án. Do đó, mối quan tâm của họ không nhất thiết giống với mối quan tâm của những người ở hai bên tuyến đường. Bản thân tôi đã từng gặp phải tình huống này và tôi đã quyết định tổ chức các cuộc phỏng vấn người sử dụng tuyến đường để cân bằng với ý kiến của người sống hai bên đường trong các cuộc họp lấy ý kiến. 64 Liên hệ giữa việc lấy ý kiến và chất lượng thiết kế đô thị Trở lại với vấn đề thiết kế đô thị và mối liên hệ giữa thiết kế đô thị với việc lấy ý kiến, Ông Castel giải thích: trên thực tế, đầu tiên kiến trúc sư quan tâm đến skyline của toàn đô thị mà ít tập trung vào yếu tố hài hòa kiến trúc ở tầng trệt của công trình. Trong khi đó, chính những yếu tố nằm ngang tầm mắt của người đi bộ mới là yếu tố quan trọng nhất. Do đó, nhà thiết kế đô thị cần tập trung vào yếu tố này. Cần ưu tiên tập trung vào tầng trệt thay vì vào chiều cao, mật độ và mặt tiền. Ở Lyon, có hai tổ chức có thể làm thay đổi cách suy nghĩ và cách tiếp cận về thiết kế đô thị: - Hội người khuyết tật, - Hội bảo vệ trẻ em. Thật vậy, hai nhóm đối tượng này có tầm mắt nhìn thấp và đặc biệt chú ý đến các rủi ro khi di chuyển trên đường. Hiện nay, các biện pháp nhằm cải thiện việc đi lại và sự thoải mái của hai nhóm đối tượng này đang được tập trung nghiên cứu. Sự tham gia mạnh mẽ của phụ nữ vào các cấp chính quyền cũng đi theo hướng này vì phụ nữ cũng thuộc nhóm gặp khó khăn khi di chuyển (con nhỏ, xe đẩy, giỏ hàng…). Phụ nữ chú ý nhiều đến chất lượng công trình dành cho người đi bộ và có nhiều đóng góp trong việc làm thay đổi cách nhìn nhận về đô thị và về thiết kế đô thị. Một học viên cho biết ở Việt Nam, tại khu trung tâm thành phố, khoảng lùi của tòa nhà dọc hai bên đường, tính thống nhất về màu sắc, sự hài hòa về kiểu dáng nhà đang được nghiên cứu. Các yếu tố này được xử lý như thế nào ở Pháp? Ông Castel: Ở Pháp, các yếu tố này cũng đang được nghiên cứu. Tuy nhiên, có sự khác biệt lớn giữa hai nước. Ở Pháp, thiết kế đô thị dựa trên nền tảng của quá khứ và đảm bảo tính liên tục của lịch sử. Ở Việt Nam, nền tảng tham chiếu là dựa vào tương lai (tòa nhà cao tầng), cắt đứt với mô hình đô thị hiện tại vốn mang tính lịch sử gắn với các dãy nhà liên kế. ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES Ce type de conseil plus restreint nécessite deux conditions préalables pour un bon fonctionnement : - Il doit être dirigé par des gens qui n’ont rien à voir avec les acteurs locaux afin d’éviter toute pression ou toute tentation de corruption, - Il doit être souverain : les élus délèguent le jugement de la qualité urbaine d’un projet de permis de construire aux techniciens de sorte à ne pas subir de pressions liées à un projet de promoteur, la qualité architecturale ne relevant plus de leur pouvoir de décision. Un participant demande si, lors de la concertation, il est préférable de cibler les citoyens habitants en bordure du projet. Seront-ils assez objectifs pour donner leur avis ? Par ailleurs, comment gérer l’invitation d’un architecte en chef pour examiner de nombreux projets ? M. Castel indique qu’à Lyon, l’architecte en chef vient une journée tous les 15 jours. Afin que son travail soit fait le plus efficacement possible, les séances sont très préparées en amont. Concernant le recueil des avis des habitants, le problème de la localisation et de leur proximité au projet se pose. Souvent, lorsque les différents acteurs du projet invitent les habitants à s’exprimer, peu d’habitants se déplacent. Les habitants les plus concernés ont tendance à être plus nombreux, les quartiers plus éloignés étant sous représentés. Faut-il laisser faire (réaction libérale) ou rééquilibrer les représentations des habitants en allant à leur rencontre et en sensibilisant l’ensemble des habitants concernés par un projet ? Le système démocratique a ses travers et ses défauts. La procédure de concertation ne donne pas de réponse à ce problème. Ses modalités sont libres. Le problème se pose particulièrement en cas de création ou élargissement d’un axe de transit, parce que les usagers de l’axe de transit viennent de loin. Leur intérêt n’est pas forcément le même que celui des riverains. Ayant été personnellement confronté à cette situation, M Castel avait décidé d’organiser des interview des personnes en transit, utilisateurs venant de loin, pour équilibrer la concertation et compenser la sur-représentation des riverains dans les réunions de concertation. Lien entre concertation et qualité du design urbain Pour en revenir à la question du design urbain et afin de la lier à l’aspect de la concertation, M. Castel poursuit en expliquant que dans la pratique, les architectes prennent d’abord en compte le skyline d’un ensemble urbain et se concentrent moins sur l’harmonie architecturale des rez-de-chaussée. Or la perception à hauteur d’homme, autrement dit ce que le piéton perçoit d’une ville est essentiel. Il s’agit donc de recadrer le travail des concepteurs sur les perspectives et perceptions à partir de la rue. Il s’agit donc de se concentrer en priorité sur les rez-dechaussée plutôt que sur les hauteurs, les densités ou les façades. A Lyon, deux types d'associations ont fait évoluer les mentalités et l’approche du design urbain : - Les associations à destination des personnes à mobilité réduite, - Les associations qui s’occupent des enfants. En effet, ces deux types de publics possèdent une perception beaucoup plus basse, et sont plus exposés aux risques des déplacements dans la rue. L’amélioration de leurs déplacements et de leur confort dans la ville est donc dorénavant recherchée. La montée en charge des femmes au pouvoir est allée dans ce sens puisqu’elles se retrouvent parfois en position de personnes à mobilité réduite (avec leurs enfants, les poussettes, les courses, etc.). Les femmes sont donc très attentives à la qualité des déplacements piétons et ont ainsi largement contribué à faire évoluer la perception de la ville et la manière d’appréhender la conception du design urbain. Un participant explique qu’au Vietnam, dans les centres villes, l’alignement de bâtiments sur la rue, l’uniformité des couleurs, la cohérence des typologies de bâtis sont recherchés. Comment ces éléments sont-ils traités en France ? M. Castel répond qu’en France, les mêmes composantes urbaines sont recherchées. Toutefois, il existe une grande différence entre les deux pays. En France, la composition urbaine prend appui et fait référence au passé dans une continuité historique. Au Vietnam, la référence se fonde sur le futur (grands immeubles), en rupture avec l’actuel forme urbaine de la ville qui est également historique à travers les compartiments chinois. 65 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ Ở Pháp, ở một vài giai đoạn, các chính trị gia và chuyên gia kỹ thuật của các thành phố cũng đã thử dựa trên các quy định để tìm kiếm một mô hình đô thị cho tương lai. Điều này đã dẫn đến nhiều tranh cãi. Song song đó, một xu hướng khác là dựa trên kinh tế du lịch mà theo đó, người dân và du khách mong muốn di sản văn hóa và lịch sử được tôn tạo. Do đó, chính quyền tập trung phát huy các yếu tố đô thị hiện hữu, giúp đảm bảo sự thống nhất của đô thị. Ngoài ra, việc kiểm soát xây dựng (màu sắc, vật liệu…) được thực hiện tại phòng cấp phép xây dựng hơn là bằng các quy chế. Ở TPHCM, nên định lượng tác động về mặt kinh tế của ngành du lịch để xác định xem có nên đưa chính sách thiết kế đô thị theo hướng này hay không. Vì khách du lịch đến TPHCM để chiêm ngưỡng di sản kiến trúc và đô thị, chứ không phải để xem các tòa nhà cao tầng mà ở thành phố nào trên thế giới cũng có và giống nhau. Vào thế kỷ thứ XVII, Strada Nostra đã được xây dựng ở thành phố Genoa, Ý. Đây thực sự là một phố đi bộ đúng nghĩa trong đó cách thiết kế đô thị giúp cho các nhà quý tộc vào thời đó có thể phô bày vẻ hào nhoáng của mình. Ngày nay, chỉ cần làm sống dậy cách thiết kế này thông qua việc xử lý tốt không gian công cộng và đặc biệt là phần nằm ngang tầm mắt của người đi độ để người dân tìm lại cảm giác thích thú khi đi dạo. Ba yếu tố cần được quan tâm chú ý và kết hợp trong thiết kế đô thị để đảm bảo sự thoải mái tối thiểu: - Chất lượng không gian công cộng - An toàn, an ninh (chống trộm, bạo lực…), - An toàn giao thông: Ở Pháp, theo luật Badinter, hễ có tai nạn giữa xe hơi và người đi bộ, thì lỗi luôn luôn thuộc về người điều khiển xe hơi. Từ khi luật này ra đời, người đi bộ được an toàn hơn vì người lái xe phải tập trung chú ý hơn trước. Có vẻ như luật này không liên quan gì đến quy hoạch đô thị, nhưng trên thực tế, nó đã có tác động đáng kể đến sự thay đổi vị trí của người đi bộ trong không gian công cộng. Ở Pháp, luật quy định người đi bộ được ưu tiên nhất trong số các hình thức đi lại. Để làm được điều này, việc xử lý không gian công cộng đóng vai trò quan trọng, tác động đến cảm nhận của người lái xe và người đi bộ đồng thời thúc đẩy người lái xe điều chỉnh tốc độ cho phù hợp. Một học viên cho biết, vỉa hè của TPHCM đang được tiến hành cải tạo. Tuy nhiên, sự phối hợp hành động giữa các quận vẫn còn yếu. Ở Pháp, làm thế nào để đảm bảo sự phối hợp đồng bộ trong việc quản lý đường giao thông? Ông Castel: Ở Pháp, có tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia, nhưng địa phương không bị bắt buộc phải tuân theo. Tuy nhiên, vì các chuyên viên tham gia xây dựng tài liệu này, nên họ sử dụng chúng để làm tài liệu tham khảo. Ngoài quy định, để đảm bảo tính đồng nhất trong việc xử lý không gian công cộng, thì điều quan trọng là mỗi cấp chính quyền phải có thẩm quyền rõ ràng trên địa bàn của mình. Ở Lyon, Cộng đồng đô thị Lyon có thẩm quyền về quy hoạch đô thị. ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES A une certaine époque en France, les politiques et techniciens des villes ont également essayé de baser les règlements sur la recherche d’une forme urbaine future. Mais très vite l’échec de cette entreprise s’est posé. En parallèle, un grand virage culturel s’est mis en place autour de l’économie du tourisme. Dorénavant, habitants et touristes souhaitent voir réhabiliter le patrimoine culturel et historique. Les pouvoirs publics se sont alors concentrés sur les éléments urbains qui se valorisent par eux-mêmes permettant en même temps d’uniformiser la ville. Par ailleurs, le contrôle et la régularisation des éléments de forme du bâti (tels que la couleur, les matériaux, etc.) se déroulent plutôt lors de la commission d’attribution du permis de construire que du fait du règlement. A HCMV, il serait judicieux de quantifier l’impact économique du tourisme pour déterminer s’il est intéressant de sensibiliser les politiques sur cet aspect du design urbain. En effet, les touristes viennent admirer le patrimoine architectural et urbain avant tout et non pas les grandes tours modernes semblables d’une ville à l’autre partout dans le monde. Au XVIIème siècle à Gênes en Italie, a été construit la Strada Nostra qui a fait suite aux premières réalisations haussmanniennes. Il s’agit d’une réelle promenade piétonne dont le design urbain permet aux bourgeois de l’époque de se montrer et d’exhiber leurs toilettes. De nos jours, ce type d’aménagement ne demande qu’à renaître à travers un bon traitement de l’espace public et en particulier des rez-de-chaussée afin que la population redécouvre le plaisir de se promener en ville. Dès lors, trois éléments doivent être réunis et pris en compte dans le design urbain pour assurer un 66 minimum de confort : - La qualité de l’espace public, - La sécurité par rapport aux vols, agressions…, - La sécurité par rapport à la circulation : en France, la loi Badinter considère qu’à chaque fois qu’il y a un accident véhicule/piéton, le véhicule est systématiquement en tort. Depuis cette loi, les piétons circulent de manière plus sécurisée car les voitures sont plus attentives. Cette loi semble ne pas concerner l’urbanisme mais elle a en réalité eu un impact considérable sur l’évolution de la place du piéton dans l’espace public. En France, la règle générale veut que le piéton soit prioritaire sur le reste des modes de déplacements. Pour se faire, le traitement de l’espace public joue beaucoup sur les perceptions (des véhicules et des piétons) et incite les conducteurs à adapter d’eux même leur vitesse. Un participant explique qu’à HCMV la mise en œuvre de la requalification des trottoirs est en cours. Toutefois, un problème de cohérence d’action et de mise en œuvre persiste entre les districts. Comment faites-vous en France pour qu’il y ait une cohérence dans le traitement des voies d’une ville à l’autre ? M. Castel indique qu’en France, il existe des références techniques nationales mais que les collectivités ne sont pas obligées de respecter. Toutefois, comme les techniciens ont été associés à la production de ces documents, ils s’en servent comme références et les mettent en œuvre. Par ailleurs, au-delà des règlements, l’homogénéité du traitement de l’espace public est essentiellement garantie par les compétences attribuées à chaque échelle de gouvernance des territoires. A Lyon la compétence aménagement du territoire est exercée par la communauté urbaine. 67 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ PHẦN 3 – TRỞ LẠI CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP: SUY NGHĨ, TRAO ĐỔI VÀ TỔNG HỢP I. Đào sâu một số điểm về thiết kế, tài chính trong việc cải tạo các trục đường ở đô thị 1. Trở lại nghiên cứu trường hợp tuyến đường Tân Sơn Nhất - Bình Lợi Tuyến đường này là trục giao thông chiến lược nối với sân bay. Dự án thiết kế tuyến đường cần cụ thể hóa nhiều mục tiêu sau: - Phục vụ tốt giao thông cho khu vực sân bay bằng cách kết nối tuyến đường với mạng lưới đường hiện hữu và trong tương lai. - Quy hoạch lại hai bên đường thông qua đồ án thiết kế đô thị có chất lượng trong đó tập trung chú ý vào các vấn đề liên quan đến cửa ngõ thành phố, - Giảm mật độ ở các quận xung quanh thông qua việc dịch chuyển dân số - Mở rộng khu vực nội thành của TPHCM về phía Đông. Để làm được điều này, vì không có đủ ngân sách thực hiện dự án, nên Thành phố đã kêu gọi một nhà đầu tư Hàn Quốc, công ty GS thực hiện. Thành phố đã ký kết một thỏa thuận với GS trong đó quy định rõ: để đổi lại việc làm tuyến đường có lộ giới 60 m, Thành phố sẽ giao cho GS một khu đất. Theo Ông Castel, phương pháp này thoạt nhìn có vẻ rất linh hoạt, nhưng bất lợi chính nằm ở chổ lợi ích của nhà đầu tư không gắn liền với tuyến đường mình xây dựng. Việc giao đất không gắn trực tiếp với tuyến đường đồng nghĩa với việc chịu rủi ro về chất lượng của tuyến đường. Do đó, lúc thương lượng với nhà đầu tư, trước khi ký thỏa thuận, cần thiết lập bộ điều kiện sách chi tiết và chặt chẽ để đảm bảo chất lượng của tuyến đường. Ngoài ra, Ông Castel còn nhận thấy có một mâu thuẫn giữa các mục tiêu: một mặt muốn tạo ra các lô đất lớn và phát huy giá trị kinh tế của các lô đất hai bên đường, còn mặt kia thì muốn giãn dân và đưa người nghèo, người có thu nhập thấp đến ở tại các lô đất này. Như vậy là cung không tương ứng với cầu. Hơn nữa, phần lớn người có thu nhập thấp không muốn sống trong chung cư cao tầng vì nó không đáp ứng được nhu cầu và nguyện vọng của họ. Người thu nhập thấp khó có thể đóng góp để chi trả cho công tác bảo trì phần chung của chung cư cao tầng. Ông giám đốc Trung tâm thông tin quy hoạch nhìn nhận rằng cần phải có các nghiên cứu sâu để xác định loại nhà ở nào phù hợp với nhóm đối tượng nào. Ông Castel: việc đưa người thu nhập thấp vào ở trong chung cư cao tầng không phù hợp với logic thực tế. Việc thiết kế một dự án đô thị dành cho người thu nhập thấp là không phù hợp với logic kinh tế. Ở phương Tây, các dự án đô thị trước tiên được thiết kế cho người thuộc tầng lớp trung lưu. Sau đó, nếu có thể dành ra được một phần lợi nhuận, thì số tiền đó sẽ dành để xây nhà cho người thu nhập thấp và người nghèo. Ở đây, các nhà lãnh đạo yêu cầu các bạn giải một bài toán kinh tế bằng công cụ quy hoạch: người nghèo và người thu nhập thấp không xem nơi ở mới là ưu tiên số một, họ không mong muốn được tái định cư. Điều họ mong muốn trước tiên là bớt nghèo và sau đó là cải thiện điều kiện nhà ở hiện tại. Ông Huỳnh Xuân Thụ: Di dời người nghèo không phải là một mục tiêu dự án theo đuổi. Do ảnh hưởng của khủng hoảng, nên các nhà đầu tư sẽ không xây dựng căn hộ cao cấp vì rất khó bán trên thị trường. Do đó, họ sẽ tập trung làm các dự án căn hộ trung bình. Để thực hiện tốt dự án này, phải di dời và tái định cư gần 11 000 người. Chính quyền khuyến khích các nhà đầu tư tái định cư tại chỗ cho người dân. ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES PARTIE 3 – RETOUR SUR LES ÉTUDES DE CAS : ÉCHANGES ET SYNTHÈSE I. Approfondissement de quelques points en matière de conception et de financement de réaménagement d’axes urbains 1. Retour l’étude de cas de la route Tan Son Nhat – Binh Loi Cette route constitue un axe stratégique de desserte de l’aéroport. Le projet doit concrétiser plusieurs objectifs : - Desservir rapidement l’aéroport en connectant la route au réseau de voirie actuel et à venir. - Réaménager le secteur à travers un design urbain de qualité en portant une attention particulièrement à la problématique d’entrée de ville, - Délester la densité des districts limitrophes en transférant des populations, - Elargir l’aire urbaine d’HCMV vers l’Est. Pour ce faire, la municipalité, n’ayant pas les fonds nécessaires à la mise en œuvre du projet en propre, a décidé de faire appel à un investisseur coréen (GS). Une convention a été signée entre cet investisseur et le Comité Populaire qui stipule qu’en échange de la réalisation de la route dans une bande de 60 m (comprenant chaussée et trottoirs), la ville d’HCM cède en contrepartie à l’investisseur un terrain situé dans la ville. M. Castel réagit en disant que cette méthode à l’avantage d’être souple, mais que le principal inconvénient réside dans le détachement des intérêts de l’investisseur à la route. En effet, ne pas lui attribuer de terrain directement rattaché à la route équivaut à prendre le risque qu’il ne se sente pas concerné par la qualité de la réalisation. Dès lors il s’agit, au moment de la négociation, avant la signature de la convention, d’établir un cahier des charges très précis pour assurer la qualité de la réalisation de la route. Par ailleurs, selon M. Castel, il y a une contradiction entre certains objectifs : vouloir faire des grandes parcelles et du profit aux abords de la voie d’une part et vouloir délester la densité et transférer des 68 populations pauvres sur ces parcelles d’autre part. Ici l’offre ne correspond pas à la demande. De plus, la plupart du temps, les populations pauvres ne souhaitent pas vivre dans des grands immeubles collectifs qui ne répondent ni à leurs besoins ni à leurs attentes. Cela pose notamment des problèmes d’entretien des immeubles, ces populations n’étant pas à même de payer des charges élevées liées à l’entretien et au bon fonctionnement des parties communes. M. le Directeur de Planic, M. Thu admet qu’il serait effectivement intéressant de commanditer des études plus poussées afin de déterminer quelles typologies de logements conviennent à quelles populations. M. Castel précise que l’objectif de vouloir délocaliser des populations pauvres pour les implanter dans des immeubles de standing ne correspond pas à une logique réaliste de terrain. Il n’est pas raisonnable de concevoir un projet urbain dédié aux populations pauvres car cette démarche est détachée des logiques économiques. En Occident, les projets urbains sont d’abord à destination des populations aisées. Par la suite, si l’on arrive à dégager assez d’argent dans les bénéfices il est alors possible de consacrer quelques logements aux populations les plus défavorisées. Le politique vous demande ici de résoudre par le biais de l’urbanisme un problème économique : les populations pauvres ne demandent pas prioritairement un nouveau logement, elles ne souhaitent pas êtres délocalisées. Ce qu’elles souhaitent d’abord, c'est être moins pauvres, ensuite, elles amélioreront elles-mêmes leur logement actuel. M. Thu revient à son tour sur cet objectif particulier et explique que déplacer des populations pauvres n’est pas un objectif spécifique. Avec la crise, les investisseurs ne vont pas construire des logements de luxes qui se vendraient pas ou trop peu sur le marché. Ils vont plutôt se concentrer sur la réalisation de logements de standing moins important. Pour mener à bien ce projet, il faut délocaliser et reloger près de 11 000 personnes. Pour cela, la force publique encourage les investisseurs à reloger ces populations sur site. 69 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ Ông Castel đề cập đến một vấn đề thực tế. Trong quy hoạch đô thị, phương pháp di dời, đền bù và tái định cư cho người dân chỉ được sử dụng đối với một số hạn chế các dự án và đối với các dự án ưu tiên. Ta không thể xem đây là phương pháp chung, phổ biến để thực hiện việc chỉnh trang, cải tạo cảnh quan đô thị. Việc triển khai thực hiện phương pháp này tốn rất nhiều thời gian và tiền của nên không thể xem nó là phương pháp phổ biến được. Có nhiều phương pháp khác để tối ưu hóa bài toán tài chính trong đó sự tham gia của người dân được tăng cường hơn. Ví dụ: thiết lập phương thức hỗ trợ cho người dân tại chổ để họ tự xây dựng lại nhà cửa tại địa điểm mới vì mục tiêu chính của dự án là tạo ra một hình ảnh đẹp về Thành phố. Ông Huỳnh Xuân Thụ khẳng định mục tiêu trên hết của dự án là cải tạo đô thị để tạo một hình ảnh đẹp hơn cho thành phố. Ông Castel: Nghiên cứu so sánh giữa mô hình nhà ở liên kế và chung cư cao tầng về các mặt mật độ, chi phí…có được thực hiện chưa? Ông Huỳnh Xuân Thụ: Hiện nay, nghiên cứu đó chưa được thực hiện, nhưng ở TPHCM "Chúng tôi nghĩ rằng mô hình chung cư là mô hình có lợi nhất". Ông Castel cho biết ở Pháp, xét về dân số, mật độ ở khu trung tâm cao hơn mật độ ở vùng ven, mặc dù nhà ở tại khu trung tâm thường thấp tầng và ở vùng ven là chung cư cao tầng. Ngoài ra, cũng không nên phát triển một loại hình nhà ở duy nhất dọc theo một tuyến đường. Thật vậy, nếu chỉ có nhà ở liên kế hoặc chỉ có chung cư cao tầng dọc hai bên đường, thì sẽ không tạo được dấu ấn về mặt mỹ thuật trong thiết kế đô thị. Do đó, cần phải làm sao cho các kiến trúc sư có thể thiết kế nhiều loại hình nhà ở với kiến trúc hài hòa và đồng bộ. Ông Huỳnh Xuân Thụ nhận xét về một số góp ý của ông Castel và cho biết các hướng suy nghĩ nêu trên sẽ tiếp tục được nghiên cứu và đào sâu với sự phối hợp của Trung tâm tạo quỹ đất TPHCM. Trung tâm này phụ trách việc thu hồi đất và giao lại đất dọc hai bên đường cho nhà đầu tư. Trung tâm có thể thu được giá trị gia tăng từ đất để đền bù và tái định cư người dân. 70 Ngoài ra, theo kết quả thảo luận trong khóa học, cần tiến hành các việc sau: - Nghiên cứu khả thi về các mặt: kinh tế, tài chính, đất đai, xã hội và pháp lý của các dự án - Chú ý đến không gian công cộng và cảnh quan ngang tầm mắt của người đi bộ. Các yếu tố này sẽ giúp mở ra nhiều hướng suy nghĩ cho dự án thiết kế đô thị dọc theo tuyến đường này. Ông Huỳnh Xuân Thụ trình bày các khó khăn và vấn đề gặp phải trong dự án cải tạo trục đường: - Mục tiêu quá rộng - Làm thế nào để đưa thiết kế đô thị vào quy hoạch và để thiết kế đô thị có giá trị pháp lý? - Làm thế nào để xử lý các nút giao cắt giữa các tuyến đường với các tuyến giao thông công cộng? - Mong muốn giữ mật độ xây dựng tương đối thấp tại khu đất của một doanh nghiệp có hoạt động sản xuất không phù hợp với quy hoạch dọc hai bên đường. Nếu doanh nghiệp bán khu đất này cho nhà đầu tư, thì làm thế nào để giữ mật độ xây dựng không quá cao? - Mong muốn giữ lại vườn mai trong khu vực này. Theo Ông, có thể giữ được không? Ông Castel: chủ đầu tư có thể chấp nhận lỗ khi mua một khu đất ở chổ này, sau đó có lời khi mua một lô đất khác và lấy một phần tiền lời để bù cho phần lỗ kia không? Có thể tính bài toán tài chính tổng thể cho toàn bộ phạm vi dự án không? Ông Huỳnh Xuân Thụ: Sở Quy hoạch - Kiến trúc không biết vì phần tài chính không thuộc thẩm quyền của Sở. Ông Castel: Điều này gây khó khăn cho dự án. Để kiểm soát được thiết kế đô thị, cần có bài toán tài chính cho quy hoạch. Khi có nhiều khu vực nhỏ trong một dự án tổng thể, thì sẽ giúp chia sẽ được rủi ro, mỗi khu vực phải tự cân đối tài chính. Tuy nhiên, điều này cũng gây khó khăn khi muốn đảm bảo sự hài hòa đô thị. Dự án được phân tích thành hai phần : phần chi (mua đất và xây dựng) và phần thu (bán diện tích sàn xây dựng). Phần thu cần đủ để cân đối cho phần chi. ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES M. Castel indique qu’il semble y avoir un problème de réalisme. La méthode qui consiste à faire partir et indemniser les populations concerne en urbanisme des projets très limités et prioritaires. On ne peut pas en faire une méthode générale pour faire évoluer le paysage de la ville. La mise en œuvre est trop lourde et trop coûteuse pour en faire un principe d’action général. Il existe d’autres moyens d’optimiser les financements en associant davantage les populations. Avec le montant dont se servent les investisseurs pour reloger les populations, ne serait-il pas possible d’engager d’autres actions aux effets bien plus efficaces ? Par exemple, instaurer des aides aux populations en place pour qu’ils reconstruisent leur logement par eux-mêmes sur un autre site puisque l’objectif principal de ce projet est de donner une belle vitrine à la ville. M. Thu confirme que l’objectif est surtout d’améliorer et de requalifier le tissu urbain pour une meilleure image de la ville. M. Castel souhaiterait savoir s’il existe des études comparant la forme urbaine des compartiments et les grands ensembles immobiliers, en termes de densité, de dépenses, etc. ? M. Thu répond que ce type d’études comparant ces deux formes de développement urbain n’a pas encore été réalisé mais qu’à HCMV « nous pensons tous que c’est le modèle des ensembles qui est le plus rentable ». M. Castel signale qu’en France, ce sont les centresvilles, pourtant aux immeubles plus bas, qui sont les plus denses en termes de population et non les grands ensembles de la périphérie. Il explique également qu’il ne s’agit pas de développer une seule typologie d’immeuble le long de la route. En effet, construire uniquement des compartiments chinois ou uniquement des grands immeubles le long de la route ne produira pas un design urbain esthétiquement remarquable. Il s’agira donc de faire en sorte que les architectes conçoivent et dessinent une mixité de solutions architecturale harmonieuse et cohérente. M. Thu commente les différentes réponses formulées par M. Castel et déclare que les pistes de réflexions exposées au sujet du foncier sont à approfondir avec le centre foncier d’HCMV. En effet, celui-ci est en charge d’acheter et de revendre les terrains le long de la route aux investisseurs. Celui-ci pourrait récupérer la valeur ajoutée des terrains afin de financer les indemnisations et les relogements des populations à délocaliser. Par ailleurs et au vu de ce qui ressort de l’atelier, il sera intéressant de développer les éléments suivants : - La faisabilité économique, financière, foncière, sociale et juridique des projets, - La prise en compte des espaces publics et le travail sur la perception du piéton. Ces éléments nous offriraient ainsi une ouverture sur les possibilités de réflexions pour la poursuite de la conception de la route. M. Thu expose les difficultés ainsi que les questions qui émergent autour des projets de réaménagement d’axes urbains : - des objectifs trop généraux, - comment faire pour que ce design urbain entre dans la planification et possède une valeur juridique ? - comment traiter les croisements/carrefours entre les différents axes et lignes de transport en commun ? - une volonté de conserver des emprises peu denses sur une parcelle qui accueille une entreprise aux activés peu compatibles avec le réaménagement de l’axe. Comment faire pour que cette parcelle ne soit pas trop densifiée lorsque l’entreprise revendra aux investisseurs ? - volonté de conserver une zone d’abricotiers ; cela vous semble t-il possible ? M. Castel demande si le maître d’ouvrage peut se permettre de perdre de l’argent sur l’achat d’un terrain, s’il en récupère grâce à la vente d’un autre terrain situé le long de l’axe ? Y a-t-il une péréquation possible sur l’ensemble du périmètre d’opération ? M. Thu spécifie que le Département de la Planification et de l’Architecture ne sait pas car le bilan financier ne relève pas de leur département. M. Castel explique que cette configuration complique énormément l’appréhension du projet. Pour maîtriser le design urbain il faut également maîtriser les bilans d’aménagement qui en découlent. Lorsqu’il y a plusieurs périmètres d’opérations il y a moins de risque sur le global, cela permet de diviser et d’isoler les risques, chaque périmètre doit s’équilibrer. En revanche, il devient plus difficile d’assurer une cohérence urbaine. En termes de décomposition globale d’une opération, on distingue le coût d’investissement dans chaque 71 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ Ở Lyon, cơ quan quy hoạch đảm trách các vấn đề pháp lý và không trực tiếp tính bài toán tài chính của dự án. Khi có một dự án cụ thể, cơ quan quy hoạch lập dự án và mời một đơn vị chuyên về tài chính thực hiện các tính toán cần thiết để xem tính khả thi về tài chính của dự án. Nếu dự án không khả thi, thì phải xem xét lại phạm vi của nó hoặc nhà nước phải tham gia hỗ trợ hoặc tăng diện tích sàn xây dựng để cân đối bài toán tài chính. Có thể thay đổi chiều cao và phạm vi dự án để tính toán cân đối dự án trên các phạm vi khác nhau. Về vườn mai, có thể bảo vệ khu vực này được với điều kiện quy hoạch khu này là khu không được phép xây dựng và thành lập hội bảo vệ vườn mai để bảo vệ khu vực này. Cần tạo sự cân đối giữa xã hội dân sự (gây áp lực lên các đại biểu dân cử để bảo vệ vườn mai) và nhà đầu tư (muốn phá bỏ vườn mai để xây dựng). 2. Đại lô Đông-Tây (nối đồng bằng sông Cửu Long với các tỉnh miền trung) Dự án này nhằm góp phần tạo hình ảnh trục đô thị văn minh hiện đại, thiết kế đô thị hài hòa với đặc trưng của vùng đồng bằng. Tuyến đường này kết hợp chặt chẽ các dự án phát triển giao thông với nhiệm vụ điều chỉnh cấu trúc đô thị theo đúng định hướng phát triển không gian của TP, nối kết yếu tố lịch sử với hiện đại, bảo tồn các công trình cổ có giá trị kiến trúc-lịch sử, cải tạo môi trường trong lành và bộ mặt mỹ quan đô thị, thúc đẩy phát triển kinh tế, du lịch. Ngoài ra, cũng cần tạo ra hình ảnh thương mại năng động dọc theo tuyến đường. Tuy nhiên, việc thiết kế đô thị gặp phải nhiều khó khăn đáng kể: - Dự án thiết kế đô thị được hình thành sau khi tuyến đường được xây dựng xong và nhà dân đã được xây dựng lại. Một khó khăn nữa là có các công trình đang xây dựng vì các công trình này đã được cấp giấy phép xây dựng trước khi có thiết kế đô thị. Làm thế nào để giải quyết vấn đề này? - Thiết kế đại lộ Đông Tây chỉ chú trọng phần giao thông chính, không dự kiến đất xây dựng các công trình phúc lợi công cộng khác như cây xanh, trạmbến tramway, bến du thuyền, vỉa hè... 72 - Vấn đề giải quyết bảo tồn các công trình có giá trị lịch sử và nghệ thuật kiến trúc vì các công trình này vẫn còn đang được các cơ quan chức năng bàn cãi, chưa được đưa vào danh mục bảo tồn, chưa có quy chế quản lý. - Dọc theo tuyến đường, có những ngôi nhà siêu mỏng, siêu nhỏ được xây trên mảnh đất dưới 17 m². Ngoài ra, theo quy định, nếu lô đất có diện tích lớn hơn 36m², thì có thể được xây dựng công trình cao bảy tầng. Việc hợp khối các nhà có diện tích nhỏ để có được diện tích lớn nhằm được cấp phép theo quy mô đúng quy định sẽ tạo nên một toàn cảnh vô cùng lộn xộn. - Những ngôi nhà mặt tiền với hình dáng bất kỳ không ngay hàng thẳng lối. Có những ngôi nhà đã vừa được cải tạo xong với ba lớp cao thấp khác nhau, tạo nên hình ảnh rất lộn xộn. - Các đường ngang hiện hữu cắt thẳng ra đại lộ Đông-Tây. Ở Pháp, có trường hợp nào giống như đại lộ Đông Tây không? Dự án thiết kế đô thị được tiến hành sau khi tuyến đường được xây dựng xong. Ông Castel: Ở Pháp, các chuyên viên kỹ thuật cũng gặp phải vấn đề như ở Việt Nam. Việc cấp giấy phép xây dựng được diễn ra liên tục. Tuy nhiên, việc quy định chiều cao của công trình phụ thuộc vào diện tích lô đất là không phù hợp và đi ngược lại với mục tiêu hài hòa trong thiết kế đô thị. Quy định này không phù hợp với khái niệm thiết kế đô thị. Một học viên cho biết cũng có quy định chiều cao công trình được tính theo lộ giới. Ông Jean-Charles Castel giải thích quy định chiều cao công trình được tính theo lộ giới khác với quy định chiều cao công trình được tính theo diện tích lô đất và không ảnh hưởng tính thống nhất và công tác thiết kế đô thị dọc theo tuyến đường. Ông Jean-Charles Castel một lần nữa nhấn mạnh: để kích thích phát triển kinh tế, cần tăng chiều cao. Ở Pháp, chỉ cần thêm một hoặc hai tầng là đủ để kích thích sự thay đổi của một lô đất khi có áp lực của nhà đầu tư. ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES périmètre, les dépenses d’un côté (payer les terrains expropriés et les travaux) et de l’autre, les recettes servant à équilibrer l’opération (vente du foncier en jouant sur les hauteurs). À Lyon, le service de la planification reste général. Il s’occupe des aspects juridiques mais ne s’occupe pas des bilans des opérations. Mais dès lors qu’il s’agit de mettre en œuvre une opération précise, on dessine un projet, puis on paie des bureaux d’études pour faire une simulation quant à la faisabilité financière du projet. Si ce n’est pas faisable et afin d’équilibrer les bilans, il faut soit revoir le périmètre, soit compenser le déficit par des fonds publics ou encore élever les densités. Il s’agit de faire varier les hauteurs, mais également les périmètres d’opérations pour la simulation des bilans sur différents périmètres. Concernant les abricotiers, il sera possible de conserver cette zone à la condition de rendre la zone inconstructible et de faire en sorte que des associations de défense des abricotiers se forment pour la défense de la zone. Il s’agit d’établir ici un équilibre entre la société civile qui se mobilise en faisant pression sur les élus pour la conservation des arbres et les investisseurs qui souhaitent construire et donc raser les arbres. 2. Le tracé de la route reliant le delta du Mékong aux provinces du centre Vietnam Ce projet a pour but de contribuer à développer l’image d’un axe routier moderne en réalisant un design qui s’intègre au milieu naturel du delta. La route est reliée aux projets de développement des transports et a pour vocation de faire évoluer la structure urbaine conformément aux orientations de développement spatial à HCMV. Elle reliera l’aspect moderne et l’aspect historique du territoire tout en conservant le patrimoine, améliorant la qualité de l’environnement et développant le tourisme et l’économie. Il s’agira également de recréer une image commerciale dynamique le long de la route. Toutefois, le design urbain le long de cette route rencontre des difficultés non négligeables : - Le projet de design urbain a vu le jour après la construction de la route ce qui a notamment entraîné des problèmes sur les constructions déjà réalisées ou en cours de réalisation, ayant fait l’objet d’un permis de construire avant l’adoption du projet de design. Comment faire pour harmoniser ces coups partis ? - Le design de la route ne porte que sur les aspects liés à la circulation. Il ne prévoit pas de terrain pour l’implantation d’équipements publics, d’espaces verts, de stations de bus, tramway, embarcadaires ou encore de trottoirs, par exemple. - La question de la conservation des bâtiments ayant une valeur historique et architecturale reste toujours en discussion entre les services techniques car le règlement sur la gestion de ces ouvrages n’a pas encore vu le jour. - Il existe le long de l’axe, des maisons dont la surface est inférieure à 17 m². Par ailleurs, un règlement mentionne qu’une parcelle de plus de 36m² peut accueillir une construction faisant jusqu’à 7 étages. La fusion des petites parcelles pour en créer une autre plus grande dans le but d’obtenir une autorisation de construction plus élevée va engendrer un paysage peu harmonieux. - Des maisons ayant pignons sur rue ne respectent pas l’alignement sur la rue et sont de formes très variées. De plus, les hauteurs par étage varient selon les maisons. Ainsi, le profil de la voie est très disparate, peu harmonieux et connaît de nombreux sauts d’échelle En France, existe t-il des cas comme celui-ci, où le projet de design urbain intervient après la réalisation de la route ? M. Castel répond qu’en France, les techniciens sont confrontés aux mêmes problèmes qu’au Vietnam. Le travail de délivrance de permis de construire est continu. En revanche, imposer des limites de hauteurs en fonction de la surface de la parcelle est incohérent et va à l’encontre de l’objectif d’harmonisation du design urbain. Il s’agit d’une règle qui est incompatible avec la notion de design urbain. Un participant fait alors remarquer que d’autres règles existent comme celle du prospect. M. Castel réagit en expliquant que la règle de prospect est très différente de celle qui réglemente la hauteur des bâtiments en fonction de la surface de la parcelle. La règle de prospect ne gène pas la cohérence et le design le long de la rue. M. Castel souligne à nouveau le fait que pour stimuler l’économie, il faut stimuler les hauteurs. En France, un écart d’un étage ou deux étages peut suffire pour stimuler l’économie et l’investissement mais aussi la mutabilité d’une parcelle lorsqu’il y a pression des investisseurs. 73 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ Học viên: Hiện nay, chính sách gộp thửa chưa được xác định rõ ràng. dựng. Trong quá trình thương lượng, người bán sẽ chọn bên chào mua tốt nhất. Theo Ông Castel, có thể xử lý phần mặt tiền cho hài hòa với kiểu nhà liên kế trên các lô đất nhỏ. Phần trong của ô phố có thể bố trí các lô đất lớn hơn và công trình xây dựng cao hơn. Tầm nhìn của người đi bộ là vô cùng quan trọng trong thiết kế đô thị và cảnh quan. Cần tìm được sự dung hòa giữa những gì ta muốn cho tương lai với hiện tại Ngăn chặn phá bỏ công trình có giá trị di sản hoặc kiến trúc là ưu tiên hàng đầu. Sau đó, có thể cần nhiều thời gian để nghiên cứu và dựa trên nghiên cứu kỹ thuật để quyết định có thể làm gì đối với các khu bảo tồn. Hiện nay, ở Châu Âu, các nhà quy hoạch đô thị đang hướng đến quy hoạch đô thị "mềm", tránh đứt đoạn trong đô thị: cảm nhận mềm, môi trường thuận lợi, không gian công cộng liên tục và dễ chịu… Ở phương Tây, việc xây dựng chung cư cao tầng rất hiếm. Các tòa nhà cao tầng chủ yếu được dùng làm văn phòng. Mô hình đô thị mật độ thấp dẫn đến việc đô thị lan tỏa rất mạnh. Một học viên đề cập đến vấn đề bảo tồn di sản hiện hữu vì có nhiều biệt thự thời Pháp đã được xác định dọc theo tuyến đường này. Hiện nay, quy chế bảo tồn các công trình này đang được xây dựng. Làm thế nào để bảo tồn các công trình này? Nên cải tạo phần mặt tiền hay kết cấu? Có nên tính đến toàn bộ khuôn viên không? Ông Castel: Nên có những giải pháp khẩn cấp từ phía Bộ văn hóa vì việc bảo tồn các công trình dạng này không thể chờ xây dựng quy chế được. Ở Pháp, chủ đầu tư phải dán công khai giấy phép xây dựng tại địa điểm xây dựng trong suốt hai tháng trước khi khởi công. Trong thời hạn này, bất kỳ ai cũng có thể kiện việc cấp giấy phép xây dựng nói trên. Điều này không gây rủi ro gì đối với chủ đầu tư vì trong hợp đồng mua đất có ghi rõ chủ đầu tư chỉ trả tiền cho người bán đất và kiến trúc sư thiết kế sau khi hết thời hạn hai tháng nói trên. Ngoài ra, chủ sở hữu đất phải ký thỏa thuận đồng ý cho người mua tiến hành xin cấp giấy phép xây dựng trên khu đất của mình bằng cách ký tên vào hồ sơ xin phép xây dựng. Như vậy, một lô đất có thể cùng một lúc có nhiều giấy phép xây 74 II. Tổng hợp của chuyên gia về các vấn đề đã trao đổi trong khóa học 1. Thiết kế tuyến đường Dự án tuyến đường Tân Sơn Nhất - Bình Lợi sẽ gặp nhiều rủi ro khi giao việc thực hiện cho một nhà đầu tư không có lợi ích trực tiếp gắn với việc xây dựng tuyến đường. Vì nhà đầu tư không có công trình xây dựng dọc theo tuyến đường này, nên họ sẽ không chú trọng đến chất lượng của tuyến đường. Do đó, trong hợp đồng giữa nhà nước và nhà đầu tư, nhà nước nên áp đặt một bộ điều kiện sách chặt chẽ, chi tiết về chất lượng công trình (có thể áp đặt bản vẽ thiết kế tuyến đường). Đối với các nghiên cứu được trình bày tại khóa học, cần xác định khu vực đô thị hoặc khu vực ven đô thị tại mỗi đoạn đường. Ngoài ra, cũng cần đặc biệt chú ý đến các điểm giao cắt và tính chất của từng đoạn đường: - Đối với đoạn đường ở khu vực đô thị, cần dành ưu tiên cho người đi bộ (bố trí đèn tín hiệu giao thông và lối băng qua đường cho người đi bộ) - Đối với đoạn đường ở khu vực ven đô thị, cần dành ưu tiên cho xe hơi. Một học viên cho biết Sở Giao thông - Vận tải chịu trách nhiệm thiết kế tuyến đường Tân Sơn Nhất Bình Lợi. Ông Castel: Sở GTVT có lẽ không phải là đơn vị phù hợp nhất để chủ trì thiết kế tuyến đường này. Sở Quy hoạch - Kiến trúc có vẻ phù hợp hơn để có thể xác định ranh giới giữa các khu vực đô thị và khu vực ven đô cũng như việc xác định tính chất của các giao lộ. ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES Un participant précise qu’aujourd’hui la politique de regroupement de parcelles n’est pas clairement définie. plusieurs permis de construire peuvent être accordés sur un même terrain. A l’issue des négociations, le vendeur choisira à la meilleure offre. Selon M. Castel, il est possible d’avoir un traitement en front de rue harmonieux avec des maisons mitoyennes étroites sur de petites parcelles puis d’avoir de plus grandes parcelles en cœur d’îlot avec des bâtiments de plus grandes hauteurs. La perception du piéton est primordiale quant aux questions de design urbain et de perspective paysagère. Il s’agit d’essayer de trouver un compromis entre ce que l’on voudrait dans le futur et l’existant. La priorité est donc bien de bloquer la démolition des ces édifices ayant une valeur patrimoniale ou culturelle. Ensuite il est possible de prendre son temps pour réfléchir et s’appuyer sur des études techniques pour décider quoi faire sur le site de sauvegardé. Aujourd’hui en Europe, les urbanistes tendent vers un urbanisme « soft », évitant les ruptures urbaines : perceptions douces, environnement confortable, espaces publics continus et agréables… En Occident, la production de logements en hauteur est très rare, les immeubles de grande hauteur sont surtout destinés à l’implantation de bureaux. La préférence pour les faibles densités entraîne un fort étalement urbain. Un participant aborde la problématique de la conservation du patrimoine existant car de nombreuses villas coloniales ont été repérées le long de l’axe. L’élaboration d’un règlement pour la conservation de ces bâtiments est en cours. Comment protéger ces maisons, par quelles mesures ? Faut-il privilégier une réhabilitation de façade, de structure, faut-il prendre en compte le site en entier ? M. Castel explique que selon son expérience, pour protéger le patrimoine, il est nécessaire d’engager des mesures d’urgence par le Ministère de la Culture car ce type de préoccupations ne peut pas attendre un règlement. En France, chaque constructeur doit respecter un délai de deux mois d’affichage du permis de construire avant engagement des travaux. Ce délai permet à n’importe qui de contester ce permis de construire. L’investisseur ne prend aucun risque car dans l’acte de vente il est spécifié que l’investisseur paiera le propriétaire et l’architecte seulement après avoir purgé le délai de recours contre le permis de construire. Par ailleurs, le vendeur du terrain doit mentionner son accord pour le dépôt du permis de construire sur son terrain, en signant le dossier de demande de permis de construire. De cette manière, II. Synthèse de l’expert français sur les questions abordées pendant l’atelier 1. Design de la route Dans le cas de la route Tan Son Nhat / Binh Loi, il semble très risqué de confier la réalisation de la route à un investisseur qui ne se sente pas impliqué dans le projet, n’ayant pas d’intérêt direct à construire un axe de bonne qualité, puisque lui-même ne vient pas construire le long de la route. Il s’agit donc, dans le contrat passé, d’imposer un cahier des charges très précis quant à la qualité de la route (le dessin et le profil de la voie peuvent également être imposés). Dans tous les cas d’étude présentés, il est nécessaire de bien identifier s’il s’agit d’une zone urbaine ou d’une zone périurbaine sur chaque tronçon de route. De la même façon, est important de bien repérer les croisements et leur nature le long de l’axe. - Sur les tronçons urbains de la voirie, le piéton doit être est prioritaire (implantation de feux et traversée piétonne au sol avec indication au sol). - Sur les tronçons périurbains, la voiture est prioritaire. Un participant précise que les voiries sont dessinées par le Département des Transports et des Communications. M. Castel explique que ça n’est probablement pas le département le mieux placé pour ce travail. Le Département de la Planification et de l’Architecture serait beaucoup plus pertinent selon M. Castel, pour désigner les limites entre les zones urbaines et les zones périurbaines et ainsi qualifier au mieux les carrefours. En effet, le Département des Transports et Communications va naturellement favoriser la fluidité et la vitesse. Le Département des Transports n’est pas responsable de l’harmonie architecturale et urbaine, on ne peut pas lui demander d’assurer cet 75 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ Thật vậy, nếu Sở GTVT chủ trì thiết kế, thì hiển nhiên Sở sẽ ưu tiên cho giao thông và tốc độ lưu thông. Sở GTVT không chịu trách nhiệm về sự hài hòa trong kiến trúc và đô thị, do đó ta không thể yêu cầu Sở đảm trách mục tiêu này. Ranh giới giữa khu vực đô thị và khu vực ven đô cần được xác định dựa trên khảo sát thực địa, chứ không phải dựa trên địa giới hành chính. Ở Châu Âu, các nghiên cứu và tính toán đã xác nhận như sau: nếu xe chạy với tốc độ 70km/h, thì lưu lượng thông xe của một tuyến đường đạt đến mức cao nhất và mức ô nhiễm môi trường sẽ thấp nhất. Tại khu vực ven đô, có thể bố trí nút giao cắt khác mức. Đây là cách làm hiệu quả nhất, theo đó xe sẽ vượt qua ngã tư bằng cầu vượt bên trên, còn người đi bộ sẽ đi bên dưới để đảm bảo tính liên tục cho người đi bộ. Ngoài ra, cách thiết kế này còn giúp giữ được hoạt động thương mại hai bên đường tại nút giao cắt và tăng giá trị các lô đất tại đây. 2. Thiết kế kiến trúc và tính hài hòa của mặt tiền tòa nhà dọc theo tuyến đường Để thiết kế kiến trúc hài hòa, trước tiên, cần nghiên cứu về tính hài hòa trong chiều cao. Sau đó, cần tiến hành tính toán, mô phỏng để nghiên cứu chiều cao cho các tòa nhà dọc theo tuyến đường nhằm đảm bảo sự hài hòa nhất định. Khoảng cách giữa chiều cao lớn nhất và chiều cao nhỏ nhất cần tương đối ít để đảm bảo tính thống nhất, nhưng cũng cần đủ lớn để kích thích đầu tư. Ở Pháp, thông thường chênh lệch này là hai tầng. Để có thể ước tính được điều này, ta cần biết lợi nhuận mà nhà đầu tư có thể có được. Người ta biết được chi phí dành cho xây dựng là bao nhiêu và cũng biết được lợi nhuận mà nhà đầu tư có được đối với mỗi dự án đầu tư xây dựng (khoảng 9% đến 10%). Bài toán kinh tế là rất quan trọng trong việc tính toán cân đối tài chính cho các dự án. Để có được cách nhìn đầy đủ về thị trường, đôi khi chính quyền địa phương mời một chuyên gia độc lập ở khu vực tư nhân đến để tính toán các bài toán cho mình. 76 Ở TPHCM, nhiều loại hình kiến trúc cùng tồn tại, trong đó đặc biệt là: - Kiến trúc nhà phố - Kiến trúc chung cư hiện đại Chính quyền phải đưa ra các quy định về kiến trúc để đảm bảo sự hài hòa của các công trình xây dựng hai bên đường bằng cách áp đặt quy định về nhịp giữa các mặt tiền dựa trên mô đun nhỏ và đặt đường trục chính cho mặt tiền theo mái che và khoảng cách từ mặt đất đến tầng một. Nếu công trình xây cao hơn mức này, thì mặt tiền của các tầng trên phải lùi vào. Ngoài ra, cũng cần ban hành quy định về việc đặt bảng hiệu và bảng quảng cáo hai bên đường. Cần ban hành quy định để tạo nhịp về chiều dọc và chiều ngang nhằm tối ưu hóa tính hài hòa về kiến trúc ở hai bên đường. Các bản vẽ trong những nghiên cứu này có thể được đính kèm vào quy chế. Ngoài ra, để đảm bảo tuân thủ quy định, cần thành lập ủy ban xem xét và cấp giấy phép xây dựng do một kiến trúc sư trưởng làm trưởng ban để buộc nhà đầu tư phải có thiết kế hài hòa với công trình xung quanh. Chỉ cần bắt buộc kiến trúc sư của nhà đầu tư đó tuân thủ một số quy định để đảm bảo tính hài hòa, thống nhất trong đô thị. Trong khuôn khổ các quy định đó, kiến trúc sư được tự do sáng tạo. 3. Chiến lược kinh tế Dự án thiết kế đô thị dọc theo một tuyến đường có tác động về tài chính và thuế, làm ảnh hưởng đến tính khả thi của các dự án bất động sản : chiều cao, hình dáng kiến trúc. Để nhà nước có thể thu hồi kinh phí đã bỏ ra trong công tác bồi thường và tái định cư, có thể ban hành các chính sách về thuế và/hoặc tạo cơ chế để nhà đầu tư trực tiếp đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng. Có thể kết hợp nhiều giải pháp vì mỗi giải pháp đều có thuận lợi và bất lợi: Thuế xây dựng: - Đây là thuế chung. Chủ đầu tư nào cũng phải ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES objectif. La limite entre la zone urbaine et périurbaine doit être déterminée sur le terrain au vu de faits réels constatés, et non pas par les districts à partir des logiques administratives. À HCMV, plusieurs types d’architectures cohabitent et notamment : En Europe, des études et des calculs ont abouti au constat suivant : c’est à 70km/h qu’il est possible de contenir le plus de voitures sur un axe routier en produisant le moins de pollutions. L’autorité publique doit établir des règles architecturales afin d’harmoniser le profil de la rue en imposant des règles de rythme de façade basé sur le plus petit module, et soulignant les lignes structurantes : auvents, niveau de corniche (qui se doit d’être homogène), etc. Si les constructions dépassent le niveau de corniche, les façades des étages supplémentaires doivent être en retraits de la rue. Il faut également fixer des règles en matière de panneaux publicitaires des commerces de la rue. Il s’agit de fixer des règles permettant d’imposer un rythme vertical et horizontal dans le but d’optimiser l’harmonie architecturale le long de la rue. Le dessin qui ressort de ces études peut ensuite être joint au règlement. Le traitement des grands carrefours en zone périurbaine peut éventuellement se faire par dénivelé. Il s’agit du système le moins cher et le plus efficace permettant de faire passer les voitures en hauteur et les piétons au sol pour une continuité piétonne. Ce système permet aux façades opposées de fonctionner ensemble et de garder une forte valeur commerciale pour une meilleure valorisation immobilière de la rue. Il permet donc d’optimiser le fonctionnement de la ville. 2. Design architectural et harmonie des façades des projets le long de la route Afin de concevoir un design architectural harmonieux, il s’agit dans un premier temps d’étudier et d’observer l’harmonie des hauteurs. Dans un second temps, il est important d’effectuer des simulations pour étudier la hauteur des constructions qu’il sera possible d’autoriser le long de la voie afin de conserver une certaine harmonie. L’écart entre la hauteur maximale et minimale doit être assez faible pour préserver une certaine cohérence, mais assez grand pour stimuler l’investissement. En France, en général, deux étages suffisent. Pour faire cette estimation, il faut que vous connaissiez les bénéfices que font les investisseurs. En France, les coûts de constructions sont connus ainsi que les bénéfices moyens dégagés par les investisseurs leur permettant d’engager la construction (9-10%). La question économique est centrale et fondamentale pour effectuer des simulations et estimer l’équilibre des opérations. En France, pour avoir une meilleure vision du marché privé, il arrive que les grandes collectivités salarient une expert privé indépendant personne du monde de l’investissement pendant quelques mois dans les services économiques afin qu’il effectue les simulations pour le compte de la collectivité. - L’architecture étroite des compartiments chinois, - L’architecture large des immeubles modernes. Par ailleurs, afin d’assurer au mieux le respect des règles édictées, il semble intéressant de mettre en place une commission de délivrance des permis de construire dirigée par l'architecte en chef afin d’obliger chacun des investisseurs à harmoniser son projet avec ceux des voisins. Il s’agit de faire respecter quelques contraintes aux architectes pour qu’ils s’inscrivent dans la cohérence urbaine. A l’intérieur de ces contraintes, la créativité est libre de s’exprimer. 3. Stratégie économique Un projet urbain conçu le long d’une voie implique donc un impact fiscal et financier qui influence la faisabilité des projets immobiliers, leur hauteur, la forme architecturale, etc. Afin de récupérer les coûts engagés dans l’indemnisation et le relogement des populations en place, il est possible de mettre en place des taxes et/ou de mettre les investisseurs directement à contribution pour la réalisation des équipements. Plusieurs solutions peuvent donc être combinées, toutes possèdent des avantages et des inconvénients : La taxe : - Elle peut être commune et générale. Elle est 77 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ nộp lúc nhận giấy phép xây dựng. Thuế này dùng để đầu tư cho công trình công cộng. Nó không bị hạn chế trong không gian và thời gian. Ở Pháp, thuế này lên đến khoảng 25$/m² sàn xây dựng. Bất lợi chính của thuế này là nó không gắn với các khoản chi đã giải ngân mà nó đi vào ngân sách chung của địa phương. - Thuế này có thể tăng thêm trong phạm vi có dự án. Thuận lợi của nó là giúp cân đối tài chính một cách rõ ràng và cụ thể trong khu vực có dự án. Điểm bất lợi là thuế này thường rất cao và do đó làm giảm sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư. Từ đó, nhà đầu tư có thể không đầu tư vào khu vực có dự án, mà sẽ đầu tư vào khu vực khác. Ở Pháp, thuế này được cụ thể hóa trong Chương trình Quy hoạch Tổng thể (PAE). Đóng góp của chủ sở hữu đất dọc theo hai bên đường: mức đóng góp tỉ lệ với mặt tiền dọc theo tuyến đường của lô đất đó. Đối với nhà liên kế, có chiều ngang nhỏ, do đó về mặt tài chính, sẽ có lợi hơn nếu có lô đất với chiều sâu lớn để có thể xây cao hơn, với diện tích sàn nhiều hơn để có thể đóng được loại thuế này. Ngoài ra, cũng cần chú ý đến cách đánh thuế tầng trệt vì thuế này sẽ có tác động đến các loại hình thương mại, hoạt động và việc sử dụng tầng trệt. Nếu các lô đất mặt tiền bị đánh thuế thấp, thì người ta sẽ sử dụng phần mặt tiền và vỉa hè làm chổ đậu xe máy. Ngược lại, nếu phần mặt tiền bị đánh thuế cao, thì điều này sẽ thúc đẩy phát triển các hoạt động thương mại có lợi nhuận cao, với đẳng cấp sang trọng, mới có thể chịu được mức thuế cao. Và khi đó, diện tích dành cho đậu xe sẽ được bố trí phía sau dãy nhà. Ở Phương Tây, người ta không áp đặt chức năng của công trình, mà chỉ kích thích nó. Điều quan trọng là phải tiến hành các mô hình tính toán cụ thể. Nhà đầu tư trực tiếp đầu tư cơ sở hạ tầng cũng là một cách để huy động tài chính cho các dự án. Trong trường hợp này, dự án sẽ được chia thành nhiều khu vực dọc theo hai bên tuyến đường. Nhà nước sẽ là chủ đầu tư về cơ sở hạ tầng và lập quy hoạch cho từng khu vực. Sau đó, nhà nước sẽ bán đất đã có hạ tầng cho nhà đầu tư. Tiền bán đất sẽ dùng để đầu tư cơ sở hạ tầng. Đây là cách tiếp cận dưới góc độ cân đối tài chính, chứ không phải dưới góc độ thuế. Ở Pháp, chính quyền địa phương thường sử dụng thủ tục lập « Khu quy hoạch thỏa thuận » (ZAC) để triển khai thực hiện các dự án dạng này. Cách làm này giúp chính quyền địa phương áp đặt được các quy định mà nhà đầu tư đã biết trước và phải tuân theo. Trong khu ZAC, chiều cao của công trình nằm dọc hai bên đường sẽ được quy định. Nhìn chung, ở Châu Âu, chiều cao thường được xác định bằng cách dựa trên các yếu tố di sản có giá trị. Các tòa nhà quá hẹp, quá cũ và không có giá trị sẽ bị phá bỏ. Mỗi khu vực dự án phải đạt được cân đối tài chính. Nếu không, phải có cơ chế chia sẽ tài chính giữa các khu vực. Giải pháp này giúp đảm bảo được cân đối tài chính cho dự án trên phạm vi rộng, nhưng nó cũng có một số rủi ro. Việc mở rộng phạm vi dự án cũng làm gia tăng thêm các yếu tố không chắc chắn. Kết luận: Ông Castel nhấn mạnh: dự án quy hoạch cải tạo dọc theo một trục giao thông là cực kỳ đắt đỏ, chủ yếu là do đền bù, giải phóng mặt bằng và tái định cư. Do đó, nên ban hành dần dần các chính sách thuế để có thể thực hiện được những dự án như thế này. ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES imposée à tous et récupérée lors de la délivrance des permis de construire pour le financement d’équipements publics. Elle n’est pas limitée dans le temps et l’espace. En France, cette taxe s’élève à environ 25$/m² de plancher construit. L’inconvénient principal est que cette taxe est déconnectée des dépenses réelles, et que sa collecte tombe dans les dépenses générales de la collectivité. - Elle peut être majorée dans le périmètre de l’opération. Il s’agit alors d’une taxe commune plus élevée, spécialement applicable à une zone opérationnelle. L’avantage de cette taxe est qu’elle permet d’équilibrer le bilan financier de façon claire et précise de la zone en question, d’un point de vue comptable. En revanche, ce type de taxe est souvent très élevé, et fait baisser l’afflux d’investissement. Les investisseurs risquent de préférer sortir de la zone pour investir ailleurs. En France, cette taxe se concrétise par la mise en place d’un Programme d’Aménagement d’Ensemble, le PAE. La redevance des riverains : il s’agit de faire payer la route aux propriétaires riverains, proportionnellement à la largeur de leur façade. Dans ce cas et avec la petite largeur des compartiment chinois, il est intéressant, d’un point de vu financier d’avoir des parcelles profondes pour pouvoir monter en hauteur et posséder plus de surface de plancher permettant de support le poids de la taxe. Par ailleurs, il est important de prendre en compte la façon dont les rez-de-chaussée sont taxés. En effet, cet aspect du financement du projet influence le type de commerces, d’activités et d’usage de ces rez-dechaussée. Si les parcelles donnant sur la voie sont peu taxées, l’occupation des rez-de-chaussée et du trottoir par les motos est favorisé. A l’inverse, si les rez-de-chaussée sont beaucoup taxés, cela favorise et stimule l’implantation de commerces rentables et de meilleur standing pouvant ainsi payer la taxe. Les parkings motos seront ainsi relayés en fond d’îlot. En Occident, les fonctions ne sont pas imposées mais 78 stimulées. Il est important d’effectuer des simulations des solutions tout en s’adapter aux évolutions La prise en charge directe des équipements par les investisseurs constitue une autre façon de financer les opérations d’aménagement. Dans ce cas de figure, le projet est découpé en un ou plusieurs périmètres opérationnels le long de l’axe. Chaque périmètre sera viabilisé et aménagé sous la maîtrise d’ouvrage de la collectivité publique. Par la suite, la collectivité revend les terrains viabilisés aux investisseurs. La vente des terrains permet ainsi de financer l’aménagement du périmètre de l’opération. Ici l’approche n’est plus fiscale mais comptable. En France, les collectivités utilisent la procédure de « Zone d’Aménagement Concertée » (ZAC) pour mettre en place ce type d’opérations. Cette démarche permet à la collectivité d’imposer un règlement dont l’investisseur a pris connaissance en amont et auquel il est obligé de se plier. Dans le cadre d’une ZAC, ce sont surtout les hauteurs en front à rue qui sont réglementées. De manière générale, très souvent en Europe, les hauteurs sont définies en fonction des éléments patrimoniaux ou neufs qui ont de la valeur. Tout le bâti qui ne rentre pas dans ces critères, et en particulier le bâti trop étroit, trop ancien et sans valeur est alors détruit. Chaque périmètre opérationnel doit s’équilibrer financièrement. Si ce n’est pas le cas, il faut engager un système de péréquation sur l’ensemble entre les différentes sous-zones du projet. Cette solution permet ainsi d’asseoir l’équilibre sur un périmètre plus vaste, mais elle présente également plus de risque d’un point de vue financier dans la mesure où le périmètre est plus vaste. L’élargissement du périmètre étend aussi les incertitudes. En conclusion, M. Castel insiste sur le fait qu’une opération de réaménagement le long d’un axe de transport routier reste extrêmement cher à mettre en place, essentiellement à cause de l’acquisition du foncier et de la délocalisation des populations. Dès lors, un système de taxe peut être mis en place de façon progressive afin de supporter ce type d’opération. 79 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ PHẦN 4 – TỔNG HỢP VÀ KHUYẾN NGHỊ CỦA CHUYÊN GIA PHÁP Thiết kế đô thị là một chủ trương mới trong chính sách quy hoạch đô thị ở TPHCM. Mục tiêu của thiết kế đô thị là tạo sự hài hòa về kiến trúc và nâng cao chất lượng không gian công cộng, đặc biệt là không gian từ vỉa hè đến mặt tiền tòa nhà. Nhưng, chủ trương mới này mâu thuẫn một phần với các chính sách khác đang có hiệu lực. Do đó, để thực hiện được thiết kế đô thị, cần điều chỉnh một số chính sách cũng như công cụ và phương pháp làm việc. Năm lĩnh vực dưới đây có ảnh hưởng đến công tác thiết kế đô thị: - Thiết kế đường giao thông, Quy hoạch, Quản lý đất đai, Cấp giấy phép xây dựng, Thuế. I. Thiết kế đường giao thông Việc xử lý không gian (từ vỉa hè đến mặt tiền tòa nhà, khoảng lùi của công trình), tạo sự thoải mái cho người đi bộ và người sử dụng xe đạp ở các đoạn đường gần khu trung tâm thành phố sẽ khác với ở các đoạn đường nằm ở vùng ven. Hiện nay, Sở Quy hoạch - Kiến trúc đảm nhận việc quy hoạch và thiết kế đô thị, còn Sở Giao thông - Vận tải thiết kế đường. Trong khi đó thiết kế đô thị không thể tách rời thiết kế tuyến đường. Do đó, cần có sự phối hợp chặt chẽ của hai Sở để xác định rõ đặc điểm và ranh giới của từng đoạn đường. Cần có bộ điều kiện sách chi tiết với các bản vẽ thiết kế cụ thể cho từng đoạn đường: đoạn nằm trong thành phố và đoạn nằm ở vùng ven. Tại các ngã tư, cần thiết kế cầu vượt trên làn đường dành cho xe hơi và xe tải. Các loại phương tiện có tốc độ chậm (xe buýt, xe gắn máy, xe đạp, người đi bộ…) sẽ băng qua ngã tư bằng giao cắt đồng mức. Điều này sẽ tạo thuận lợi cho việc kết nối hai bên đường và thúc đẩy phát triển hoạt động thương mại, dịch vụ 80 hai bên đường. Không nên xây cầu cho người đi bộ băng qua đường. Tại những đoạn đường nằm trong trung tâm, cần chú trọng chất lượng vỉa hè để khuyến khích đi bộ, từ đó giảm di chuyển bằng xe máy hoặc xe hơi trong khoảng cách ngắn. Như vậy, đường sẽ thông thoáng hơn. II. Quy hoạch Nguyên tắc quy hoạch hiện nay (lô đất có diện tích nhỏ thì có mật độ xây dựng cao và hệ số sử dụng đất thấp; lô đất có diện tích lớn thì mật độ xây dựng thấp và hệ số sử dụng đất cao) dẫn đến việc công trình xây trên lô đất lớn cao hơn nhiều so với công trình xây trên lô đất nhỏ. Trên một tuyến đường, sự thay đổi về chiều cao này đi ngược lại với sự hài hòa về kiến trúc. Trên cùng một tuyến đường, dù công trình lớn hay nhỏ, thì sự chênh lệch chiều cao cũng chỉ nên từ một đến hai tầng. Để có được chất lượng tốt trong thiết kế đô thị, cần bỏ quy định về hệ số sử dụng đất, ít nhất là đối với dãy công trình mặt tiền. Cần quy định chính xác và cố định chiều cao tối đa cũng như mật độ xây dựng cho từng đoạn đường. Nếu chúng ta muốn tác động đến diện tích của lô đất, thì có thể sử dụng các công cụ khác, ví dụ như thuế. Cần tăng cường chất lượng thiết kế không gian bên ngoài công trình, từ vỉa hè đến mặt tiền, tức là ưu tiên thiết kế những gì nằm trong tầm mắt của người đi bộ trên vỉa hè. Mỗi khu vực cần có dự án thiết kế đô thị phù hợp với đặc điểm của khu vực đó và bổ sung cho các quy định về quy hoạch. Mỗi dự án thiết kế đô thị cần được kiểm tra tính khả thi về nhiều khía cạnh, trong đó có khía cạnh tài chính, với sự hỗ trợ của các chuyên gia tài chính độc lập bên ngoài. Việc kiểm tra này sẽ giúp xác định xem có cần điều chỉnh chỉ tiêu quy hoạch, phạm vi dự án, hoặc mức thuế suất hay không, trước khi giới thiệu dự án và kêu gọi đầu tư. ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES PARTIE 4 – SYNTHÈSE ET RECOMMANDATIONS DE L’EXPERT FRANÇAIS La prise en compte du design urbain est une nouvelle préoccupation qui est intégrée dans les objectifs de politique d’urbanisme à Ho Chi Minh Ville. Elle a pour but de favoriser l’harmonie architecturale et la qualité de l’espace public, en particulier la qualité pour les usagers de l’espace situé entre la chaussée et les façades. Mais cette nouvelle politique entre partiellement en contradiction avec d’autres politiques habituellement mises en œuvre. Elle nécessite donc de réajuster les autres politiques urbaines ainsi que les outils et les méthodes de travail. Sont concernées les interactions avec : - La conception de la voirie, - La planification des densités, des hauteurs et des espaces extérieurs, - Les moyens publics d’action foncière, - L’instruction des permis de construire, - La fiscalité. I. La conception de la voirie Le traitement des espaces entre la chaussée et les façades, les reculs des bâtiments, le confort des piétons et des vélos ne peuvent pas être traités de la même façon selon qu’il s’agisse d’un tronçon de route à caractère de centre ville ou d’un tronçon de route de caractère autoroutier en périphérie. Aujourd’hui c’est le service de la planification qui détermine le type d’urbanisme et c’est le service des transports qui détermine la voirie. Ces deux approches ne peuvent pas être séparées. Elles doivent être coordonnées pour définir clairement les limites des différents types de tronçons de voirie. La réalisation de la voirie doit être assortie de cahiers des charges comportant des plans type et des profils en travers adaptés à chaque tronçon, selon le caractère urbain ou périurbain du secteur traversé. Dans les carrefours à niveaux, ce sont les voitures qui doivent subir le dénivelé, et non pas les piétons et les vélos, de façon à favoriser le développement et les échanges des deux côtés de la voirie. En centre ville, l’attention doit être apportée aux trottoirs pour encourager les déplacements piétons et ainsi réduire les nombreux déplacements courts en véhicules qui encombrent inutilement les rues. Nota Bene : la conception d’ensemble doit pouvoir être faite en amont, car si l’on conçoit le design après la réalisation de la route, le coup est parti et les contraintes sont déjà en grandes parties prédéterminées. II. La planification des densités, des hauteurs et des espaces extérieurs La règle actuelle de planification des densités a pour effet d’accorder des hauteurs plus importantes aux grandes parcelles qu’aux petites parcelles. Ces variations de hauteur, le long des voies, sont contraires à l’harmonie architecturale. Les variations de hauteur autorisées ne doivent pas excéder un ou deux étages entre chaque immeuble, petit ou grand. Pour obtenir un design urbain de qualité, il faut supprimer les règles proportionnelles à la surface des parcelles comme le Coefficient d’Occupation des Sols (COS), au moins dans la bande située en façade le long des rues. Il faut fixer une hauteur maximale de façade uniforme par tronçon de rue et un Coefficient d’Emprise au Sol uniforme. Si on veut influencer la taille des parcelles, il y a d’autres façons de le faire, avec la fiscalité par exemple. La planification actuelle doit être renforcée pour tout ce qui concerne la définition des rez-de-chaussée et la qualité des espaces extérieurs entre la chaussée et les façades, c’est-à-dire tout ce que voit en priorité un piéton sur le trottoir. Chaque périmètre opérationnel de projet doit faire l’objet d’un projet de design particulier, complémentaire à la planification. Le projet doit faire l’objet de tests, sous forme de simulations, avec l’aide de professionnels privés, y compris sur le plan financier, pour vérifier sa faisabilité et voir comment réajuster les règles de planification, le périmètre opérationnel ou les taxes éventuelles, avant que les problèmes ne surviennent. 81 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ III. Chính sách quản lý đất đai Nhà nước nên thu hồi đất trên toàn bộ phạm vi dự án, không nên chỉ thu hồi đất trong phạm vi lộ giới. Để giảm chi phí đền bù, việc thu hồi đất cần được thực hiện dần dần và trước khi công bố quy hoạch. Để làm việc này một cách hiệu quả hơn, nhà nước cần có những công cụ pháp lý để chống đầu cơ đất đai như sau (các công cụ này đã được áp dụng ở nhiều quốc gia): - Nhà nước có quyền ưu tiên mua với mức giá thị trường của năm trước; - Nhà nước có quyền mua thông qua thương lượng với các chủ sở hữu bất động sản ngay từ khi có ý tưởng về dự án. Các quyền này có thể được trao cho chính quyền địa phương hoặc Trung tâm tạo quỹ đất. IV. Cấp giấy phép xây dựng Sự hài hòa về kiến trúc và chất lượng không gian bên ngoài không thể đạt được nếu chỉ đơn thuần dựa vào các quy định. Cần thành lập một Hội đồng để xem xét hồ sơ xin giấy phép xây dựng tại các trục đường có thiết kế đô thị. Hội đồng này có nhiệm vụ đảm bảo sự hài hòa về kiến trúc của công trình xây dựng dọc theo trục đường. Chủ tịch Hội đồng là một Kiến trúc sư giỏi, độc lập. Các thành viên của Hội đồng gồm đại diện Thành phố, quận/huyện có liên quan, chuyên gia về cảnh quan và chuyên gia về bảo tồn di sản. V. Chính sách thuế Để Thành phố có thể thu hồi phần kinh phí đã chi cho đền bù và giải phóng mặt bằng, cần nghiên cứu và ban hành các chính sách thuế và cơ chế đóng góp của nhà đầu tư như sau: - Thuế xây dựng đối với mọi công trình xây dựng trên địa bàn thành phố - Thuế xây dựng đặc biệt đối với công trình xây dựng trong phạm vi dự án mở rộng tuyến đường. - Thuế giá trị gia tăng của bất động sản - Đóng góp trực tiếp của nhà đầu tư trong phạm vi dự án Vì nguồn vốn nhà nước bỏ ra để làm tuyến đường là rất nhiều, nên nếu chỉ áp dụng biện pháp đóng góp 82 trực tiếp của nhà đầu tư, thì chiều cao và mật độ xây dựng trong khu vực dự án sẽ rất lớn. Để giữ được chiều cao và mật độ xây dựng ở mức hợp lý, cần áp dụng kết hợp cả hai cơ chế: đóng góp trực tiếp của nhà đầu tư và thuế xây dựng đối với mọi công trình trên địa bàn thành phố. Nên áp mức thuế suất thuế xây dựng cao ở khu trung tâm thành phố để giảm áp lực xây dựng ở khu trung tâm. Ngoài ra, cách tính thuế sử dụng đất hiện nay cũng chưa thật hiệu quả vì chỉ tính dựa trên diện tích đất mà chưa tính đến diện tích sàn được phép xây dựng trên thực tế. Điều này vô tình khuyến khích các chủ đầu tư xây dựng cao hơn và do đó mang tính đầu cơ cao hơn và sử dụng nhiều cơ sở hạ tầng hơn. Cần thêm vào cách tính tiền sử dụng đất hiện nay qua hai hệ số: hệ số diện tích sàn được phép xây dựng và hệ số giá mỗi m2 sàn tùy theo công năng của công trình (nhà ở, thương mại, văn phòng…). Để nắm được giá mỗi m2 sàn tùy theo công năng của công trình, cần thành lập Trung tâm theo dõi thị trường bất động sản. KẾT LUẬN Trong số các khuyến nghị nêu trên, một số có thể thực hiện được ngay, một số khác có thể thực hiện trong dài hạn. Các điểm có thể thực hiện được ngay và thuộc thẩm quyền của thành phố là: 1. Khảo sát, nghiên cứu kỹ thực địa trước khi thiết kế đô thị. 2. Phối hợp giữa các sở, ban ngành. 3. Phối hợp với chuyên gia ở khu vực tư nhân để tính bài toán tài chính trong quy hoạch và thiết kế đô thị. 4. Thành lập Hội đồng xem xét hồ sơ xin cấp giấy phép xây dựng. Các khuyến nghị có thể thực hiện trong dài hạn, thuộc thẩm quyền của Chính phủ và Quốc hội: 1. Điều chỉnh quy định về quy hoạch (ví dụ: bỏ hệ số sử dụng đất tại các trục đường muốn thực hiện thiết kế đô thị). 2. Điều chỉnh quy định của pháp luật về thẩm quyền của chính quyền địa phương, ban hành các chính sách thuế về bất động sản. ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES III. Les moyens publics d’action foncière L’action foncière de la collectivité doit inclure le périmètre opérationnel et pas seulement l’emprise de la voirie. Elle doit être moins coûteuse. Pour cela elle doit être conduite plus en amont. Pour être plus efficace, la collectivité a besoin des outils juridiques qui existent dans d’autres pays pour lutter contre la spéculation foncière, c’est à dire d’un droit de préemption sur les ventes au prix des transactions précédentes, ainsi que d’un droit d’acheter librement tous les terrains possibles à l’amiable avant même d’annoncer l’existence d’un projet de voirie ou d’équipements publics. Cette possibilité peut être accordée à la collectivité directement ou par l’intermédiaire d’un fonds spécial alimenté par une taxe spéciale. Nota Bene : il s’agit de se doter d’outils juridiques d’action foncière : mécanisme de lutte anti-spéculative, de préemption… permettant d’acquérir les terrains à coûts maîtrisés. Dans le cas d’Amsterdam, la collectivité a réussi à acquérir 80% de la ville. IV. L’instruction des permis de construire L’harmonie architecturale et la qualité des espaces extérieurs ne peuvent pas être obtenues seulement par la réglementation. Celle-ci doit être complétée par la mise en place d’une commission qui examine les permis de construire. Cette commission est chargée de veiller à l’harmonie architecturale tout au long de l’axe. Elle doit être composée de techniciens de l’agglomération et de chaque district concerné, et présidée par un architecte en chef indépendant, assisté en tant que de besoin, par un paysagiste et un expert en patrimoine historique. Nota Bene : la réglementation à elle seule ne suffit pas pour aider à coordonner la qualité des espaces le long des voiries des axes que l’on souhaite mettre en valeur. V. La fiscalité La récupération des dépenses engagées par la municipalité pour libérer les terrains nécessite de mettre en place un système fiscal le long de l’axe ou une comptabilité spécifique par opération imposant des participations aux investisseurs. Compte tenu du montant important des dépenses engagées, l’équilibre des recettes et des dépenses aura certainement pour effet de densifier et de faire monter les hauteurs de façon très importante. Il est préférable de maintenir des hauteurs raisonnables et de compléter le système des ressources des projets opérationnels par une taxe générale applicable a tous les permis de construire de l’agglomération, construction neuves ou extensions. Cette taxe devrait être plus forte sur le centre de l’agglomération, d’une part parce qu’il y a plus d’équipements, et d’autre part, pour faire baisser un peu la pression sur le centre ville. Cette taxe pourrait abonder également en partie le fonds d’action foncière. En outre, la taxe actuelle sur le foncier n’est pas performante puisqu’elle est proportionnelle à la surface des terrains, sans tenir compte de la réalité des planchers construits. Elle privilégie de fait les immeubles de grande hauteur, qui sont les plus spéculatifs et qui par ailleurs, consomment le plus les équipements publics. Il conviendrait d’asseoir cette taxe sur les mètres carrés de plancher bâtis. Dans un souci de justice, cette base devrait être multipliée par la valeur par mètre carré des biens immobiliers ou par leur valeur locative. Ce dernier point nécessite la mise en place d’un observatoire foncier et immobilier. Enfin, il faut s’inspirer des systèmes de taxe sur les plus-values qui existent dans d’autres pays, et qui permettent d’empêcher totalement les reventes spéculatives. En conclusion, parmi les recommandations de l’atelier, certaines peuvent être mises en œuvre rapidement comme ce qui concerne les études de design urbain, la coopération entre les services, la mise en place de simulations des projets avec des professionnels privés, la mise en place d’une commission de qualité des permis de construire. D’autres recommandations qui ont pour effet de nécessiter de modifier la réglementation locale, comme la suppression du Cœfficient d’Occupation des Sol le long des axes, nécessite une décision politique à moyen terme. Les autres recommandations qui imposent de modifier la fiscalité ou le droit des collectivités en matière d’action foncière nécessitent des décisions politiques plus larges qui prendront plus de temps. 83 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ Nhận xét và trao đổi Ông Nguyễn Văn Giàu, Trung tâm nghiên cứu kiến trúc: Khóa học đã giúp học viên ý thức được tầm quan trọng của việc gắn kết tổ chức không gian với bài toán tài chính trong các dự án quy hoạch. Một vấn đề được các học viên hết sức quan tâm chờ đợi để có thể áp dụng ngay vào thực tế công tác đang thực hiện (thiết kế đô thị 3 tuyến đường: đại lộ Đông Tây, xa lộ Hà Nội, đường Bình Lợi-Tân Sơn Nhất-Vành đai ngoài) là vấn đề tổ chức không gian - kiến trúc - cảnh quan trong thiết kế đô thị, tuy nhiên do thời lượng của khóa tập huấn có hạn nên chưa thể nêu lên được trong khóa này. Ông mong muốn có thêm khóa học để có thể đào sâu hơn về thiết kế đô thị và kiến trúc. Ông cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của các khóa tập huấn vì nó gợi mở suy nghĩ về cách làm ở nước ngoài để làm giàu thêm cách tiếp cận về đô thị của đội ngũ cán bộ Việt Nam. 84 Ông Huỳnh Xuân Thụ nhấn mạnh để trao đổi về thiết kế đô thị, Ông Castel đã đề cập đến nhiều khía cạnh : thuế, pháp lý, sự tham gia của người dân…Ông cũng đề nghị có thể trở lại chủ đề thiết kế đô thị để thảo luận sâu hơn, ví dụ có thể tổ chức một hội thảo về thiết kế đô thị. Ông Castel kết luận khóa học bằng một số nhận xét về các ý kiến trên: Đúng là trong suốt 5 ngày làm việc, chỉ có 1 ngày dành cho thiết kế đô thị. Khi bắt đầu triển khai chính sách mới (thiết kế đô thị được quy định trong luật quy hoạch đô thị ở Việt Nam từ năm 2009), nhiều bất cập về cơ chế, công cụ hiện hành sẽ xuất hiện. Do đó, cần điều chỉnh các chính sách và công cụ để tạo điều kiện khả thi cho các dự án và cho việc thực hiện công tác thiết kế đô thị. ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES Remarques et échanges M. Giau, du Centre de recherche sur l’architecture, signale que cet atelier a permis de faire prendre conscience aux participants l’importance de rapprocher l’organisation de l’espace et le volet financier lié aux projets et aux opérations d’aménagement. Les participants s’attendaient à discuter de l’organisation de l’espace, d'architecture et de paysage qui sont des sujets importants dans le design urbain pour les appliquer tout de suite dans les travaux en cours (le design urbain pour les trois axes routiers : Boulevard Est-Ouest, Route de Hanoi, Route Tan Son Nhat – Binh Loi – Vanh Dai Ngoai). Toutefois, au vu du court temps imparti, ces sujets n’ont pas été abordés. M. Giau souligne l’importance des ateliers qui permettent d’ouvrir les réflexions sur des solutions étrangères dans le but d’enrichir l’approche urbaine et le point de vue des cadres au Vietnam. M. Thu souligne que dans le but d’aborder et permettre de développer la problématique du design urbain, M. Castel a abordé l’ensemble des aspects fiscaux, juridiques, participation citoyenne, etc. Il propose de revenir éventuellement sur la thématique du design urbain afin de l’approfondir lors d’un colloque ou d’un séminaire sur le design urbain par exemple. M. Castel conclut l’atelier en rebondissant sur ces dernières remarques. Il constate qu’effectivement sur les cinq jours d’atelier, seulement un jour a été passé sur le design urbain. En effet, la mise en place de nouvelles politiques (design urbain pris en compte dans la loi depuis 2009 au Vietnam) soulève des contradictions avec les dispositifs précédents. Il faut ainsi rechercher à harmoniser les politiques et les outils afin de réunir les conditions de faisabilité des projets et pour faire en sorte que le design urbain soit possible et fonctionne. 85 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ DANH SÁCH CÁC KHÓA TẬP HUẤN 2006 - 2011 ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES LISTE DES ATELIERS DE FORMATION 2006 - 2011 Trong 05 năm, PADDI đã tổ chức 37 khóa đào tạo tập huấn với nhiều chủ đề đa dạng và có sự tham gia, điều phối của khoảng 30 chuyên gia Pháp: En cinq ans, Le PADDI a organisé 37 sessions de formation sur des sujets très variés, et faisant intervenir une trentaine d’experts français différents : 37. "Cân nhắc các rủi ro liên quan đến nước. Tiến tới quy hoạch các yếu tố có tính hệ thống": 12/12 16/12/2011 Stéphane Caviglia (Chuyên gia của Métropole Savoie) 37. "Approche intégrée des risques d'inondation : vers une planification d'éléments systémiques" : 12/12 - 16/12/2012 Stéphane Caviglia (Expert de Métropole Savoie) 36. "Đối tác công - tư": 05/12 - 09/12/2011 Jan G. Janssens (Chuyên gia của AFD) Thierry Gouin (Chuyên gia vùng Rhône-Alpes) 36. « Les Partenariats Public-Privé » : 05/12 - 09/12/2011 Jan G. Janssens (Expert AFD) Thierry Gouin (Expert Rhône-Alpes) 35. "An toàn giao thông": 31/10 - 04/11/2011 Hubert Treve (Phòng An toàn giao thông, Mạng lưới đường giao thông, Không gian công cộng, thuộc Trung tâm Nghiên cứu Mạng lưới hạ tầng kỹ thuật, Giao thông, Quy hoạch đô thị và Xây dựng công trình công ích (CERTU) 35. « Sécurité routière » : 31/10 - 04/11/2011 Hubert Trève (CERTU) 34. "Kiến trúc xanh: ý tưởng, thiết kế và thực hành": 30/05 - 03/06/2011 Thierry Roche (Kiến trúc sư, nhà Quy hoạch, Quản lý Atelier Thierry Roche) 33. "Hỗ trợ chủ đầu tư nhà nước về công trình xanh, xây dựng bền vững ứng phó với biến đổi khí hậu": 09/05 - 13/05/2011 Cécile Wicky (Trưởng dự án, theo dõi mảng Chất lượng năng lượng của tòa nhà, Thành phố ) 32. "Quy hoạch và quản lý không gian xanh, chính sách bảo tồn và phát triển cây xanh": 18/04 - 22/04/2011 Frédéric Ségur (Kỹ sư Trưởng phòng Cây xanh và Cảnh quan, Cộng đồng đô thị Lyon) 31. "Điều hành và đầu tư tài chính các dịch vụ đô thị cấp thoát nước và xử lý nước thải": 06/12 10/12/2010 Claude de Miras (Viện Nghiên cứu vì sự phát triển IRD), Christophe Cluzeau (Giám đốc dự án INDH-INMAE), Abderrahmane Ifrassen (Tổng Giám đốc IDMAJ SAKAN) 30. "Thực hiện quy hoạch đô thị tại TPHCM": 14/06 - 22/06/2010 Patrice Berger (Cơ quan Quy hoạch đô thị Cộng đồng đô thị Lyon AUGL) 29. "Sở hữu chung riêng trong quản lý chung cư và các phương thức tài chính dành cho nhà ở": 28/06 - 02/07/2010 Jean-Charles Castel (CERTU) 28. "Cơ sở dữ liệu và hệ thống theo dõi, giám sát đất đai và bất động sản": 12/04 - 16/04/2010 Robert Wacheux (Sở Đất đai Cộng đồng đô thị Lyon) 27. "Cải tạo chỉnh trang đô thị, bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư": 22/03 - 27/03/2010 Pascale Bonnard (Trưởng Ban Chương trình và Quản lý Cơ chế Nhà ở – Ban Giám đốc Nhà ở và Đoàn kết Phát triển đô thị – Cộng đồng đô thị Lyon) 34. « Architecture verte : concepts et pratiques » : 30/05 - 03/06/2011 Thierry Roche (Architecte DPLG, gérant de l’Atelier Thierry Roche) 33. « Appui à la maîtrise d’ouvrage publique dans le cadre de bâtiments verts et constructions durables face au changement climatique » : 09/05 - 12/05/2011 Cécile Wicky (Chef de projet/référent QEB, Ville de Lyon) 32. « Aménagement et gestion publique des espaces verts, politique de protection et de développement de l’arbre » : 18/04 - 22/04/2011 Frédéric Ségur (Ingénieur responsable du service Arbres et Paysage à la Communauté Urbaine de Lyon) 31. « Inclusion urbaine, fabrication de la ville et réseaux. Gouvernance et financement des services en eau et assainissement » : 06/12 - 10/12/2010 Claude de Miras (IRD), Christophe Cluzeau (Directeur Projet INDH-INMAE) et Abderrahmane Ifrassen (Directeur Général IDMAJ SAKAN) 30. « Mise en œuvre de la planification urbaine à HCMV » : 14/06 - 22/06/2010 Patrice Berger (AUGL) 29. « Copropriété et financement du logement » : 28/06 - 02/07/2010 Jean-Charles Castel (CERTU) 28. « Observatoire foncier et immobilier » : 12/04 -16/04/2010 Robert Wascheux (Service foncier du Grand Lyon) 27. « Réaménagement urbain : expropriation, relogement et indemnisation »: 22/03 - 27/03/2010 Pascale Bonnard (Directeur Mission GPV - Grand Lyon) 26. « Réaménagement urbain autour des nouveaux axes » : 25/01 - 29/01/2010 Jean-Charles Castel (CERTU) 26. "Cải tạo chỉnh trang đô thị xung quanh các trục đường mới": 25/01 - 29/01/2010 Jean-Charles Castel (CERTU) 25. « Application SIG dans la gestion urbaine » : 18/01 - 23/01/2010 Anne Lesvignes (Direction de l’Urbanisme du Grand Lyon) 25. "Ứng dụng GIS trong quản lý đô thị": 18/01 - 23/01/2010 Anne Lesvignes (Sở Quy hoạch đô thị của Cộng đồng đô thị Lyon) 24. « Protection du patrimoine architectural urbain et perspective d’une stratégie de gestion du patrimoine à HCMV » : 10/01 - 16/01/2010 Bruno Delas (Service de la Culture et du Patrimoine, Ville de Lyon) 24. "Bảo tồn di sản kiến trúc đô thị và triển vọng chiến lược quản lý di sản trong khu trung tâm lịch sử của TPHCM": 10/01 - 16/01/2010 Bruno Delas (Sở Văn hóa và Di sản Thành phố Lyon) 86 87 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES 23. "Cơ quan tổ chức giao thông và các mô hình quản lý doanh nghiệp khai thác": 14/12 - 18/12/2009 Maurice Lambert (Chuyên gia độc lập, nguyên Giám đốc Văn phòng Cơ quan tổ chức giao thông công cộng, Cộng đồng đô thị Grenoble Grenoble) 23. « Autorités organisatrices des transports et modèles de gestion des compagnies d’exploitation » : 14/12 - 18/12/2009 Maurice Lambert (expert indépendant, ex. Directeur du Cabinet du Président du Syndicat des Transports en Commun de Grenoble) 22. "Mô hình công nghệ và xây dựng công trình xanh": 07/12 - 11/12/2009 Françoise Cadiou (Ủy ban Năng lượng Nguyên tử Quốc gia Pháp), Melissa Merryweather (Hội đồng Công trình xanh Việt Nam VGBC) 22. « Démonstrateurs technologiques et bâtiments verts » : 07/12 - 11/12/2009 Françoise Cadiou (CEA), Melissa Merryweather (VGBC) 21. "Các chính sách và cơ chế để tạo quỹ đất sạch": 02/03 - 06/03/2009 Robert Wacheux (Sở Đất đai Cộng đồng đô thị Lyon) 21. « Outils et dispositifs d’une politique foncière » : 02/03 - 06/03/2009 Robert Wacheux (Grand Lyon) 20. "Phát triển nhà ở xã hội": 09/02 - 13/02/2009 P. Peillon (Hiệp hội các Tổ chức Nhà ở Xã hội) 20. « Développement du logement social » : 09/02 - 13/02/2009 P. Peillon (Union des Organismes HLM) 19. "Mối quan hệ giữa Quy hoạch xây dựng đô thị và Quy hoạch giao thông đô thị": 17/11 - 21/11/2008 Philippe Bossuet (SYTRAL) và Patrice Berger (Cơ quan Quy hoạch đô thị Cộng đồng đô thị Lyon AUGL) 19. « Planification urbaine et transports publics » : 17/11 - 21/11/2008 Philippe Bossuet (SYTRAL) et Patrice Berger (AUGL) 18. "Quy hoạch giao thông tại các nước đang phát triển": 10/11 - 11/11/2008 Huzayyin (Giáo sư Trường Đại học Cai-rô Ai Cập) 18. « Planification des transports dans les pays en développement » : 10/11 - 11/11/2008 Huzayyin (Université du Caire) 17. "Cải tạo chỉnh trang đô thị": 16/06 - 20/06/2008 Laurent Bechaud (Giám đốc Nhóm vì Lợi ích Cộng đồng trong Dự án quy mô lớn của Thành phố Saint-Etienne) 17. « Renouvellement urbain » : 16/06 - 20/06/2008 Laurent Bechaud (GIP-GPV de Saint-Etienne) 16. "Quản lý chất thải rắn: quy chế và thu phí": 09/06 - 13/06/2008 C. Neciolli (Cộng đồng đô thị Lyon) 16. « Gestion des déchets : règlements et financement » : 09/06 - 13/06/2008 Christelle Neciolli (Grand Lyon) 15. "Quản lý một tuyến xe buýt": 26/05 - 30/05/2008 H. Van Eibergen (Cộng đồng đô thị Grenoble-Alpes) 15. « Gestion d’une ligne de bus » : 26/05 - 30/05/2008 H. Van Eibergen (Grenoble-Alpes Métropole) 14. "Vận hành, khai thác, quản lý bãi đậu xe": 14/04 - 18/04/2008 Michel Golly (Công ty Tư vấn ASCO) 14. « Fonctionnement et exploitation des parkings » : 14/04 - 18/04/2008 Michel Golly (Société ASCO consulting) 13. "Quản lý và xử lý chất thải": 07/05 - 12/05/2007 C. Neciolli (Cộng đồng đô thị Lyon) 13. « Gestion et traitement des déchets » : 07/05 - 12 /05/2007 Christelle Neciolli (Grand Lyon) 12. "Thiết kế đô thị": 26/03 - 31/03/2007 M. Perret-Blois (Văn phòng Tư vấn kiến trúc & quy hoạch đô thị Patrick Chavanes) 12. « Design urbain » : 26/03 - 31 /03/2007 M. Perret-Blois (Agence Patrick Chavanes) 11. "Xã hội hóa dịch vụ đô thị và cơ sở hạ tầng": 05/02 - 12/02/2007 E. Baye (Công ty ASCONIT) 11. « Privatisation des infrastructures et des services urbains » : 05/02 - 12 /02/2007 E. Baye (Société ASCONIT) 10. "Quy hoạch và quản lý công trình ngầm": 29/01 - 05/02/2007 A. Chaussinand (Thành phố Saint-Etienne) 10. « Planification et gestion des ouvrages souterrains » : 29/01 - 05/02/2007 A. Chaussinand (Ville de Saint-Etienne) 9. "Chính sách nhà ở và quản lý nhà ở xã hội": 15/01 - 22/01/2007 J-F Rajon (Môi trường sống và Nhân văn) 9. « Logement social » : 15/01 - 22 /01/2007 Jean-François Rajon (Habitat § Humanisme) 8. "Triển khai thực hiện quy hoạch": 20/11 - 27 /11/2006 C. Marquand (SED de Haute-Savoie) 8. « Passage d’un plan d’aménagement à la réalisation » : 20/11 - 27 /11/2006 C. Marquand (SED de Haute-Savoie) 7. "Quy hoạch và quản lý đất đai": 16/10 - 20 /10/2006 Jean-Charles Castel (CERTU) 7. « Planification et gestion des ressources foncières » : 16/10 - 20 /10/2006 Jean-Charles Castel (CERTU) 6. "Quản lý nhà ở xã hội": 03/04 - 12/04/2006 J-F Rajon (Môi trường sống và Nhân văn) 6. « Gestion du logement social » : 03/04 - 12 /04/2006 Jean-François Rajon (Habitat § Humanisme) 5. "Gắn kết các dự án cải tạo chỉnh trang đô thị": 22/03 - 31/03/2006 C. Marquand (SED de Haute-Savoie) 5. « Montage des projets d’aménagement » : 22/03 - 31/03/2006 C. Marquand (SED de Haute-Savoie) 88 89 KHÓA TẬP HUẤN VỀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ DỌC THEO CÁC TRỤC ĐƯỜNG MỚI MỞ 4. "Chính sách quản lý tại các thành phố": 10/03 - 21/03/2006 Jean-Charles Castel (Trung tâm Nghiên cứu các Mạng lưới Giao thông, Quy hoạch đô thị và các Công trình công cộng CERTU) 3. "Cải tạo chỉnh trang đô thị": 28/02 - 09/03/2006 Laurent Bechaud (Giám đốc Nhóm vì Lợi ích Cộng đồng trong Dự án quy mô lớn của Thành phố Saint-Etienne) 2. "Xã hội học đô thị": 16/02 - 27/02/2006 P. Chaudoir (Viện Quy hoạch đô thị Lyon IUL) 1. "Quản lý cơ sở hạ tầng và dịch vụ đô thị": 06/02 - 15/02/2006 E. Baye (Công ty ASCONIT) 90 ATELIER SUR LE RÉAMENAGEMENT URBAIN AUTOUR DE NOUVEAUX AXES 4. « Politique et gestion des villes » : 10/03 - 21 /03/2006 Jean-Charles Castel (CERTU) 3. « Renouvellement urbain » : 28/02 - 09/03/2006 Laurent Bechaud (GIP-GPV de Saint-Etienne) 2. « Sociologie urbaine » : 16/02 - 27/02/2006 P. Chaudoir (IUL) 1. « Gestion des infrastructures et services urbains » : 06/02 - 15/02/2006 E. Baye (Société ASCONIT) 91 Tr u n g t â m d ự b á o v à n g h i ê n c ứ u đ ô t h ị Centre de prospective et d’études urbaines Quý vị có thể tải các tài liệu tổng hợp của các khóa tập huấn và tham khảo các thông tin trên trang web của PADDI http://www.paddi.vn Le téléchargement des livrets ainsi que les informations sont disponibles sur le site internet du PADDI http://www.paddi.vn 216 Nguyễn Đình Chiểu, Q.3, Thành phố Hồ Chí Minh Te l / f a x : + 8 4 ( 0 ) 8 3 9 3 0 5 4 7 7 – E m a i l : p a d d i @ h c m . f p t . v n We b s i t e : w w w. p a d d i . v n Region SAØI GOØN TP HOÀ CHÍ MINH
Documents pareils
Cơ sở dữ liệu và hệ thống theo dõi quản lý đất đai và
mới (toàn diện, đa ngành) trong quản lý đô thị,
trong bối cảnh đặc thù của Thành phố Hồ Chí
Minh. Phương pháp tổ chức khóa học được hình
thành với sự phối hợp của các đối tác Việt Nam
và được các đ...